CA KHÚC 19 THÁNG 8
VÀ NHẠC SĨ
XUÂN OANH
******************
I.LỜI BÀI HÁT 19 THÁNG 8
Toàn dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngày.
Thề đem xương máu quyết lòng chiến đấu cho tương lai. Mười chín tháng tám khi
quốc dân căm hờn kêu thét. Tiến lên cùng hô mau diệt tan hết quân thù chung.
Mười chín tháng Tám ánh sáng tự
do đưa tới. Cờ bay nơi nơi muôn ánh sao vàng. Máu pha tươi đều trên lá cờ bay
khắp chốn giang sơn.
Người Việt Nam ta giữ vững trong tim lời thề.
Mười chín tháng Tám chớ quên là ngày khởi nghĩa. Hạnh phúc sáng tô non sông
Việt Nam .
Toàn dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngày.
Thề đem xương máu quyết lòng chiến đấu cho tương lai. Mười chín tháng tám khi
quốc dân căm hờn kêu thét. Tiến lên cùng hô mau diệt tan hết quân thù chung.
II.HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
Ca khúc, hành khúc 19 tháng 8
được cố nhạc sỹ Xuân Oanh lúc này là 1 thanh niên mới 22 tuổi sáng tác vào đúng
ngày 19/08/1945 giữa không khí sục sôi, tinh thần quật khởi của những người dân
đứng lên giành độc lập và sau này đã trở thành một ca khúc sống mãi với thời gian.
Ngày hôm đó, trong đoàn người
khởi nghĩa hướng đi từ Văn Điển về Hà Nội. Từng đoàn đoàn, lớp lớp nhân dân từ
năm cửa ô đồng loạt tiến vào Hà Nội. Dòng người cuồn cuộn, nô nức sát vai nhau
đi trong không khí tưng bừng. Cảm nhận được sự thay đổi của vận mệnh đất
nước, của mỗi người dân Việt Nam ,
đất nước đang tiến dần đến độc lập. Cảm xúc thăng hoa của ngày lịch sử này dâng
trào đã khiến Xuân Oanh vừa đi vừa nhẩm giai điệu của một bản hành khúc mới như
thể nhịp điệu, câu, lời của bài hát đã có sẵn cứ thế tuôn trào. Câu chuyện kỳ
lạ này có gì đó giống như tác giả viết ra hành khúc Mac-xây-e trong cuộc Cách mạng 1879 ở Pháp. Lạ
mà có thật! Xuân Oanh cứ thế vừa đi vừa nhẩm. Đến khi đoàn người tới Nhà hát
Lớn thì bản hành khúc cũng vừa được viết xong trong óc.
Ngay sau đấy, 19 tháng 8 đã được ký âm, được truyền tay qua các
phố cổ Hà Nội và chỉ đến chiều 19/8/1945, 19
tháng 8 của Xuân Oanh
cũng đã vang lên trên đường phố Hà Nội. Vậy là đã có một hành khúc vang vang âm
hưởng cùng những bước chân của đoàn người khởi nghĩa ở Hà Nội ngày ấy. “Toàn
dân Việt Nam
đứng đều lên góp sức một ngày. Thề đem xương máu quyết lòng chiến đấu cho tương
lai. Mười chín tháng tám – khối dân căm hờn kêu thét… Mười chín tháng tám – chớ
quên là ngày khởi nghĩa…”
Trong những năm tháng chiến tranh
giành độc lập dân tộc, ca khúc này đã trở thành nguồn cổ vũ tinh thần mạnh mẽ
với những người chiến sĩ khắp mọi miền đất nước. Mỗi năm, đến dịp cả nước tưng
bừng kỷ niệm ngày Cách mạng tháng tám thành công, ca khúc này lại vang lên trên
khắp nẻo đường đất nước như thúc giục toàn dân phải quyết tâm bảo vệ và xây
dựng đất nước ngày càng giàu đẹp đúng theo sự kỳ vọng của ông cha.
III.NHẠC SỸ ĐỖ XUÂN OANH
Nhạc sĩ Xuân Oanh sinh ngày
4/1/1923 tại thị trấn Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Năm 1942, ông bắt đầu con
đường cách mạng cùng với nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Sau Cách mạng tháng Tám 1945,
ông được phân phụ trách công tác tuyên truyền.
Xuân Oanh là một trong hai người
Việt Nam đầu tiên thực hiện bản tin tiếng Anh trên Đài Tiếng nói Việt Nam, làm Báo
Cứu Quốc ở chiến khu Việt Bắc. Sau đó, ông công tác tại Ban Đối ngoại Trung
ương Đảng, Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị và hòa bình…
Ông đã được trao giải thưởng Nhà
nước về Văn học nghệ thuật năm 2007, Huân chương Độc lập hạng ba năm 1998.
Trong sự nghiệp âm nhạc của mình,
nhạc sĩ Xuân Oanh đã để lại trong lòng nhiều thế hệ người Việt Nam dấu ấn sâu
sắc bằng các tác phẩm: "Quê hương anh bộ đội","Ca mừng chế độ ta
tươi đẹp, "Hồ Chí Minh người là muôn ánh sao”, "Ngôi sao thế kỷ”,
"Hà Nội ở Lâm Đồng", “Gọi thu”, “Bình minh trên đất nước không bao
giờ tắt”, “Hãy kí tên” phỏng theo bài thơ “Trời sẽ trong xanh trở lại” của nhà
thơ người Nhật Bản- Umeda Shyozi; hợp xướng “Quê hương”…
Nhắc tới nhạc sỹ Xuân Oanh, không
ai có thể quên được ca khúc “19 tháng Tám” bất tử của ông. Ca khúc ra đời vào
đúng ngày 19/8/1945, giữa không khí sục sôi, tinh thần quật khởi của những
người dân đứng lên giành độc lập và sau này đã trở thành một ca khúc sống mãi
với thời gian.
Xuân Oanh không chỉ giỏi về thơ,
ca, nhạc, họa, mà còn thông thạo 7 ngoại ngữ. Có thể kể đến các tác phẩm, mà
ông là dịch giả như: “Trần trụi giữa bầy sói”, “Hai số phận”, “Nửa đêm về
sáng”, “Một lần chưa đủ”, “Vườn Thượng Hải”, “Phía sau tình yêu”... Phần tiếng
Anh của Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của tác giả Lưu Quang Vũ biểu
diễn ở Mỹ, cuốn “Ông cố vấn”, bản dịch tiếng Anh là của nhạc sỹ Xuân Oanh. Ông
từng làm phiên dịch cho nhiều vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, trong đó có Chủ
tịch Hồ Chí Minh và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong những lần tiếp khách quốc
tế.
Ông qua đời ngày 27/3/2010 tại Hà Nội sau thời gian dài lâm trọng bệnh, thọ 87
tuổi.
Thanh Hà sưu tầm và chỉnh sửa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét