NỘI DUNG BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
KHAI SINH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
*********************
I.NỘI DUNG BẢN TUYÊN NGÔN
"Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời
bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu
ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản
tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
"người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được
tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó
là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế
mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác
ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. hành động của chúng trái hẳn với
nhân đạo và chính nghĩa.
Về
chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng
thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở trung, nam,
bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn
kết.
Chúng
lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu
nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu.
Chúng
ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng
dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về
kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng
cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng
đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn,
trở nên bần cùng.
Chúng
không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách
vô cùng tàn nhẫn.
Mùa
thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh
đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ
đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ,
nghèo nàn. kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng trị đến Bắc kỳ
hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày
9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc
bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được
ta, trái lại, trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước
ngày mồng 9 tháng 3, biết bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để
chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt
minh hơn nữa.
Thậm
chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên
bái và Cao bằng.
Tuy
vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo.
Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp
chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo
vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự
thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã
nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự
thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ
tay Pháp.
Pháp
chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực
dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế
độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Bởi
thế cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho
toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết
những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của
Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn
dân Việt Nam ,
trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng
tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng
ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền
độc lập của dân Việt Nam .
Một
dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc
đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải
được tự do! dân tộc đó phải được độc lập!
Vì
những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước
Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy.
II.TIẾN TRÌNH VIẾT BẢN TUYÊN NGÔN
ĐỘC LẬP CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Sau ngày phát
xít Nhật đảo chính thực dân Pháp ở Đông Dương (9/3/1945), cao trào kháng Nhật
cứu nước của nhân dân ta dâng lên cuồn cuộn. Phong trào đấu tranh vũ trang, đấu
tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần đã liên tiếp nổ ra ở hầu hết các
địa phương trên cả nước. Căn cứ địa cách mạng được xây dựng ở nhiều nơi. Toàn
Đảng và toàn dân ta đang chuẩn bị ráo riết cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ
xuất hiện.
Với một nhãn
quan chính trị sâu sắc và dự đoán tình hình hết sức tài tình, lãnh tụ Hồ Chí
Minh dự liệu một cách chắc chắn, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam nhất định sẽ giành được thắng lợi rực rỡ, ngày độc lập của đất nước sẽ đến
trong nay mai; còn bọn thực dân, phát xít nhất định sẽ bị đánh đổ, ngày tiêu
vong của bọn chúng đã gần kề.
Vì thế, vào
khoảng giữa tháng 5/1945, Hồ Chí Minh đã yêu cầu trung úy John, sĩ quan báo
vụ của Cơ quan tình báo chiến lược Hoa Kỳ (OSS) đặt cơ sở tại căn cứ địa Việt
Bắc, điện về Côn Minh (Trung Quốc) đề nghị Bộ Tư lệnh không đoàn số 14 của Mỹ
đóng tại đây thả dù cho Người một quyển Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1). Đây có thể được xem là bước chuẩn bị đầu tiên của Hồ Chí Minh cho việc
viết bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta vào mấy tháng sau đó.
Từ tháng 5 đến 8/1945, phong trào cách mạng ở nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Ngày
19/8/1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội. Từ Khu Giải phóng Việt Bắc, vào
chiều ngày 25/8/1945, Chủ tịch Ủy ban Dân tộc Giải phóng Hồ Chí Minh về cư trú
tại ngôi nhà của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô, số 48, phố Hàng Ngang, Hà
Nội.
Mặc dù còn mệt
do bệnh chưa khỏi hẳn, nhưng ngay sáng hôm sau (26/8), Hồ Chủ Tịch đã triệu tập
và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Trong cuộc họp này, ngoài
việc bàn những vấn đề trọng yếu của quốc gia, Người cho biết sẽ chuẩn bị để ra
bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 27/8, trong cuộc họp của Ủy ban Dân tộc
Giải phóng, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Liên tiếp trong hai ngày 28 và 29/8, Hồ Chủ tịch dành phần lớn
thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn độc
lập. Ngày 30/8, Người mời một số đồng chí ở Trung ương Đảng đến trao đổi,
góp ý kiến cho bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập. Sau khi đọc bản thảo cho
mọi người nghe và hỏi ý kiến, Người nói, trong đời, Người đã viết nhiều, nhưng
đến bây giờ, mới viết được một văn bản cực kỳ quan trọng là bản Tuyên ngôn
độc lập cho nước nhà. Ngày 31/8, Hồ Chủ Tịch bổ sung một số điểm vào bản
thảo Tuyên ngôn độc lập; đồng thời, hỏi Ban tổ chức về tình hình cụ thể
của việc chuẩn bị ngày Lễ Độc lập sẽ diễn ra tại quảng trường Ba Đình vào ngày
2/9/1945.
Đúng 13 giờ 30
phút ngày 2/9/1945, đoàn xe chở các thành viên của Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đến. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị Bộ trưởng bước lên
lễ đài thì cả rừng người vỗ tay hoan nghênh như sấm dậy. Giờ chào cờ đã đến.
Đội kèn đồng của Vệ quốc quân tấu bài Quốc ca Tiến quân ca hùng tráng. Lá cờ đỏ
sao vàng được hai chiến sĩ giải phóng quân là Đàm Thị Loan và Lê Thi từ từ kéo
lên đỉnh cột cờ.
Tiếp theo,
Trưởng ban tổ chức buổi lễ Nguyễn Hữu Đang trịnh trọng giới thiệu với quốc dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, đọc bản Tuyên ngôn Độc
lập. Trong bộ quần áo kaki giản dị và với giọng nói ấm áp, khúc chiết, rõ
ràng, phảng phất mang âm hưởng xứ Nghệ, Người đã nêu lên quyền dân tộc cơ bản
của các dân tộc trên thế giới, khẳng định quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm
của nhân dân ta là quyền độc lập, tự do; và đó cũng là quyền con người mà nhân
dân ta đã anh dũng đấu tranh, giành lấy từ tay phát xít Nhật, bởi lẽ không thể
có được quyền con người khi quyền độc lập của dân tộc bị chà đạp; nói cách
khác, dân tộc có được độc lập thì con người mới được hưởng quyền con người một
cách đích thực. Đó là tư tưởng bất hủ của Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ
giữa quyền dân tộc và quyền con người: Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh
ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do mưu cầu hạnh phúc Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm
nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay,
dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.
Đồng thời, Người
khẳng định quyết tâm của nhân dân Việt Nam
trong việc bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước mình: Toàn thể dân tộc
Việt Nam
quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do và độc lập ấy.
Đọc được nửa
chừng, giữa những tràng vỗ tay nhiệt liệt, Hồ Chủ tịch dừng lại, hỏi:
- Đồng bào
nghe tôi nói có rõ không?
Một triệu con
người cùng đáp, tiếng vang dậy như sấm
- Có!
Với câu hỏi giản
dị này, vị Chủ tịch nước và quần chúng nhân dân đã hòa làm một.
Về sự kiện này,
nhà thơ Tố Hữu viết:
Hôm nay, sáng
mồng hai tháng chín,
Thủ đô hoa,
vàng nắng Ba Đình.
Muôn triệu
tim chờ chim cũng nín,
Bỗng vang lên
câu hát ân tình:
Hồ Chí Minh !
Hồ Chí Minh !
Người đứng
trên đài lặng phút giây,
Trông đàn con
đó vẫy hai tay.
Cao cao vầng
trán Ngời đôi mắt,
Độc lập bây
giờ mới thấy đây !
Người đọc
Tuyên ngôn Rồi chợt hỏi:
Đồng bào nghe
tôi nói rõ không ?
Ôi ! câu hỏi
hơn một lời kêu gọi,
Rất đơn sơ mà
ấm bao lòng !
Cả muôn triệu
một lời đáp: Có !
Như Trường
Sơn say gió biển Đông.
Vâng ! Bác
nói, chúng con nghe rõ,
Mỗi tiếng
Người mang nặng non sông.
Trời bỗng
xanh hơn, nắng chói lòa,
Ta nhìn lên
Bác, Bác nhìn ta.
Bốn phương
chắc cũng nhìn ta đó,
Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa !
Buổi lễ chào
mừng ngày Độc lập và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kết thúc bằng
cuộc biểu tình tuần hành vĩ đại của nhân dân trên các đường phố rợp cờ đỏ sao
vàng và vang tiếng hát Tiến quân ca. Bản Tuyên ngôn độc lập là một áng
hùng văn đời đời bất diệt.
(1) Trong cuộc chiến tranh giải phóng của nhân
dân Bắc Mỹ chống chủ nghĩa thực dân Anh (1775 1781), các xứ thuộc địa Anh ở Bắc
Mỹ đã tổ chức các Đại hội đại biểu để thảo luận những biện pháp chống thực dân
Anh. Đại hội lần thứ hai họp ở Philadenphia năm 1775 đã cử ra một Ủy ban do
Jefferson làm Chủ tịch để thảo ra một bản Nghị quyết tuyên bố các xứ thuộc địa
là những nước độc lập, tách khỏi phạm vi, quyền lực của Anh hoàng. Ngày 4 7
1776, bản dự thảo Nghị quyết này được đại biểu của 13 bang thông qua; và trở
thành Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ.
TS
NGUYỄN PHÚC NGHIỆP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét