5 tháng 1, 2013

Huấn luyện và khảo sát 13 tỉnh thành Đồng Bằng Sông Cửu Long

Phóng sự ngày 3 tiếp theo: tham quan ĐỀN THỜ NGUYỄN TRUNG TRỰC
KIÊN GIANG - RẠCH GIÁ - ĐỀN THỜ NGUYỄN TRUNG TRỰC - PHÀ TẮC CẬU - CÀ MAU
************************
     Sau khi tham quan Mộ Chị Phan Thị Ràng, chúng tôi tiếp tục quay trở lại quốc lộ 80 để về thành phố Rạch Giá. Sau khi dùng cơm trưa, chúng tôi tranh thủ ghé tham quan Bến Tàu Cao Tốc Rạch Giá và Đền Thờ Nguyễn Trung Trực.
VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI ANH HÙNG NGUYỄN TRUNG TRỰC
     Nguyễn Trung Trực  (1839 – 1868) là vị thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp ở Tân An (nay thuộc Long An) và Rạch Giá (nay thuộc Kiên Giang), gần cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ.
I. Cuộc đời:
     Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn, từ năm Kỷ Mùi 1859 đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên thầy dạy học của ông đặt tên hiệu cho ông là Trung Trực ( theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam,  tr.46)
     Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng tức Thăng, mẹ là bà Lê Kim Hồng.

     Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay thuộc ngoại ô thị xã Tân An, tỉnh Long An.) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.)

     Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khoẻ mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.     Tháng 2/1859, Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng  theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính để gìn giữ đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định.
     Năm 1861, nhờ lập được công lao, nên ông được triều đình phong chức Quyền sung Quản đạo” (Hỏi đáp lịch sử tập 4 , tr.46. Phan Thành Tài trong Nam Bộ - đất và người ghi là “quyền sung quản binh đạo”(Hội Khoa học lịch sử TP. HCM, NXB Trẻ tr. 159) nên còn được gọi là '''Quản Chơn''' hay '''Quản Lịch'''.     Nghĩa quân dưới quyền lãnh đạo của ông gồm một số nhà yêu nước: Lâm Quang Ky, Hoàng Khắc Nhượng, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Học, Hồ Quang v.v…

II. Chiến công:
     
     Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt đã tóm gọn hai chiến công nổi bật của Nguyễn Trung Trực bằng hai câu thơ nổi tiếng sau:
Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa 
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần. 
     Thái Bạch dịch:
Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất 
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần.

2.1 Hỏa hồng Nhật Tảo:

     Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ (25/02/1861), Nguyễn Trung Trực về Tân An. Lúc này, Pháp đã chiếm Mỹ Tho (tức thành Định Tường thất thủ  vào ngày 12/04/1861) nên thường cho những tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động.
     Một trong số đó là chiếc tiểu hạm Espérance (Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo, thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
     Tiểu hạm Espérance là một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Đây là một trong những tàu thuộc hàng bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ.
     Vào trưa ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực cùng phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng và Võ Văn Quang (theo Hỏi đáp lịch sử, còn Phan Thành Tài ghi tên là Nguyễn Văn Quang) tổ chức cuộc phục kích đốt cháy tàu này. Nguyễn Phan Quang cho biết: Theo tài liệu của Pháp thì trong trận đốt cháy tàu Espérance, Nguyễn Trung Trực đã được sự hướng dẫn, hổ trợ của Trương Định.(Việt Nam thế kỷ 19'', NXB TP. HCM, 2002, tr. 289).
     Trận Nhật Tảo có 2 ý kiến khác nhau: thứ nhất ông Trực cho giả làm thuyền đám cưới qua sông, thừa lúc áp sát tàu Espérance rồi đánh úp;  thứ hai là ông Trực cho giả làm thuyền buôn lúa, để đánh chìm tàu. Ý kiến sau được nhiều người chấp nhận, trong đó có sự đồng thuận của một số người tác giả người Pháp như Paulin Vial, Alfred Schreiner…
     Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự người Việt, chỉ có 5 người trốn thoát (2 lính Pháp và 3 lính Tagal, tức lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní.)
Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã ra lệnh đốt cháy nhiều nhà cửa trong thôn Nhật Tảo.
     Chiến thắng này được  triều Nguyễn cho ban thưởng và ghi chép lại trong sử. 
     Còn với Pháp, viên thanh tra bản xứ tại Nam Kỳ tên Paulin Vial gọi đây là:'' “một sự kiện đau đớn” làm người An Nam phấn chấn và gây xúc động, đau lòng sâu sắc trong lòng người Pháp”.( theo Paul Vial: “ Les premières années de la Cochinchine, Colonie Francaise”, 2 quyển, Challamet Ainé, Libraire Editeru, Paris, 1874, tr.124)
     Và Alfred Schreiner gọi chiến thắng Nhật Tảo: “Đấy là khúc nhạc mở đầu cho một cuộc tổng công kích hầu như toàn bộ các đồn lũy của người Pháp” (Alfred Schreiner: “ Abrégéde I’histoire D’ An nam”,2è Éd. Sài Gòn, 1906, tr.224)
     Ở một trang khác, tác giả nhận định: “Cuộc đốt cháy tàu Espérance là một biến cố bi thảm đã gây nên một nỗi xúc động sâu sắc nơi người Pháp và kích thích một cách lạ lùng trí tưởng tượng của người Annam "(sách đã dẫn, tr.223)''  
     Thật vậy, từ sau chiến thắng trên, hàng loạt cuộc tấn công trên sông liên tiếp diễn ra, như: nghĩa quân Nguyễn Trung Trực tấn công tàu tuần tiểu Pháp trên vàm sông Bến Lức (tháng 12 năm 1862) và trên Sông Tra (Sông Tra, nay thuộc xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.) vào ngày 16 tháng 12 năm 1862 (có sách ghi ngày 17) gây nhiều thiệt hại cho đối phương''.
     Paul Vial kể: “Ba chiếc tiểu hạm (Iorcha) đậu trên sông Vaico Đông (tức Vàm Cỏ Đông) nhằm kiểm soát sự lưu thông đường thủy, bị tấn công hết sức dữ dội bởi những nhóm người đông đảo, do họ được cổ vũ bởi trận đốt tàu Espérance… Một trong ba chiếc đó, chiếc tiểu hạm số 3. Viên sĩ quan chỉ huy tàu này đã bị thương.”(sách đã dẫn, tr. 195)
     Và Georfes Taboulet đã thú nhận:“Cuộc nổi dậy bất ngờ bùng nổ vào ngày 16/12/1862 (trận Sông Tra), và chẳng mấy chốc lan rộng ra. Ba chiếc tuần tra và nhiều đồn bót bị đánh chiếm, như đồn Rạch Tra, gần Sài Gòn; trong trận đó, viên đại úy Thouroude đã tử trận…''.(Georfes Taboulet:“ La geste Francais en Indochine”, Paris, 1956, tr. 481.)

2.2 Kiếm bạt Kiên Giang:
     Sau khi 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ mất (hòa ước Nhâm Tuất 1862), Nguyễn Trung Trực rút về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông ra Huế nhậm chức Lãnh binh, đến giữa năm 1867, lại về Hà Tiên giữ chức Hà Tiên thành thủ úy để trấn giữ đất này.(Theo biên bản hỏi cung tại khám lón sài Gòn. Có tài liệu nói Nguyễn Trung Trực  nhận chức khi ở Tân An, có tài liệu nói ông ra Bình Định nhận chức.)
     khi thành Hà Tiên thất thủ ngày 23/06/1867, ông theo lệnh triều đình rút quân về Bình Thuận mà đưa quân về lập căn cứ ở Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện Hòn Chông, tỉnh Kiên Giang. Phan Thành Tài cho biết lúc đó ông mới đổi tên thành Nguyễn Trung Trực. sách đã dẫn, tr. 167) 
     Vào  4 giờ sáng ngày 16/06/1868, nghĩa quân cùng nhiều người dân yêu nước (có cả hương chức và người Hoa, người Khmer) do Nguyễn Trung Trực chỉ huy đã bí mật, bất ngờ đánh úp đồn Kiên Giang, do quan tư An Sart chỉ huy,  tiêu diệt đối phương, trong số đó có 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính,  thu trên 100 khẩu súng và nhiều đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền.
     Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương  ngay tại trung tâm  đầu não của tỉnh. Nhận tin chủ tỉnh Rạch Giá cùng viên trung úy Gamard bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là “một sự kiện bi thảm” (un événement tragique).( theo Bulletin de la Société des Etudes Indochine de Saigon”, Sài Gòn, tr.40)
     Hai ngày sau (ngày 18/06/1868), trung tá hải quân A. Léonard Ansart, Trần Bá Lộc, Tổng Đốc Phương mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày 21/06/1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm chống đối phương lâu dài.(2) 
     Tháng 9/1868, chiếc tàu Groeland chở Lãnh Binh Tấn (tức Huỳnh Văn Tấn, còn được gọi Huỳnh Công Tấn, trước có quen biết ông Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn trở thành cộng sự cho Pháp), cùng 150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để bao vây và truy đuổi ông Trực.
     Phạm Văn Sơn thuật chuyện: “Hương chức và dân trên đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực với hắn để bao vây bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải trốn vào trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe núi nhỏ hẹp. Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng...''(Việt sử tân biên'', quyển 5, tập thượng, Sài Gòn, 1962, tr.198) 
     Có người cho rằng để bảo toàn lực lượng nghĩa quân, nhân dân trên đảo và lòng hiếu với mẹ (Pháp đã bắt mẹ của ông để uy hiếp), Nguyễn Trung Trực tự ra nộp mình cho người Pháp và đã bị đưa về giam ở Sài Gòn.
     Pau Vial lại cho rằng: “Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại Phú Quốc”.(Paul Vial, sách đã dẫn)
     Rất tiếc bản cáo của lãnh binh Tấn gửi cho thống đốc Nam kỳ về "việc bắt Nguyễn Trung trực và Tống binh Cân" đã bị thất lạc từ ngày 23/05/1950, vì thế sự việc chưa được tường tận. (theo Nguyễn Nghị, ''Nguyễn Trung Trực qua một số tư liệu của Pháp'' cho biết: "Nhiều hồ sơ tương đối quan trọng trong những năm 1860 đến đầu thập niên 1870, đã được ghi là phát hiện mất. Theo một số nhà chuyên môn thì người Pháp khi trở lại Việt Nam đã lấy đi..."(Nam Bộ, xưa và nay, NXB TP. HCM và tạp chí Xưa và Nay, năm 2005, tr.255)

III. Thọ tử:
     Pháp phủ dụ Nguyễn Trung Trực qui thuận không được nên vào ngày 27/10/1868, đô đốc toàn quyền Nam Kỳ G.Ohier cho đưa ông về lại Rạch Giá và đã sai một người khmer trên Tưa (người dân thường gọi ông là Bòn Tưa) đưa ông ra hành hình tại chợ Rạch Giá, hưởng dương khoảng 30 tuổi.
     Ðịa điểm hành quyết ngay tại miếng đất đối diện ”chợ nhà lồng” Rạch Giá, lúc bấy giờ còn cây da cổ thụ. 
     Trên miếng đất thấm máu Nguyễn Trung Trực, người Pháp cho xây lên Nhà Giây Thép, về sau là Ty Bưu Ðiện tỉnh lỵ. Riêng cây da cổ thụ đã bị đốn vào năm 1947.
     Người ta kể rằng: ''Vào buổi sáng ngày 27/10/1868, nhân dân Tà Niên nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ông Trực yêu cầu Pháp mở trói, không bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê hương trước phút "ra đi". Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ “thọ”(chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Ông hiên ngang, dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và từ giã đồng bào… (theo ''Lược sử Đình Vĩnh Hòa Hiệp'' do Ban Bảo vệ di tích tổ chức biên soạn và ấn hành vào tháng 1 năm 2008: “Từ đầu tháng 6/1867 đến ngày 16/06/1868, dân làng Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp) đã đùm bọc, chở che nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, để họ chuẩn bị tấn công đồn Kiên Giang.)  
     Tương truyền, trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã sang sảng ngâm bài thơ tuyệt mệnh: 
Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên,
Yêu gian đàm khí hữu long tuyền,
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa.
Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.
Thi sĩ Đông Hồ dịch:
Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai,
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
Anh hùng gặp phải hồi không đất,
Thù hận chang chang chẳng đội trời.

IV.Câu nói lưu danh:
     Khi ông bị người Pháp giải về Sài Gòn, viên thống soái Nam Kỳ lúc đó vừa dụ hàng vừa hăm dọa, ông trả lời: “Thưa Pháp soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài trừ cho hết cỏ trên mặt đất thì chứng tỏ ngài mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này”
     Và trước khi hy sinh, Nguyễn Trung Trực còn  khẳng khái nhắc lại: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.

     Và sau đây là hình ảnh của chúng tôi tại đền thờ của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực:

Khu mộ của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực











Sau khi tham quan đền thờ Nguyễn Trung Trực, chúng tôi tiếp tục lộ trình về Phà Tắc Cậu, theo quốc lộ 63 đi tỉnh Cà Mau. Và sau đây là  1 số hình ảnh của chúng tôi tại phà Tắc Cậu:


Chợ ngay phà Tắc Cậu...
Tranh thủ mua ít trái cây lúc chờ phà sang
Chị Dương Yến Tuyết trước khi xuống phà
Bạn Nguyễn Văn Lịch
Bạn Hồ Thị Cẩm Loan
Phà chạy rồi
Bên kia phà










Sự kiện Xẻo Rô:
     Đêm 30/10/1959, quân ta đánh chi khu Xẻo Rô, chỉ 15 phút, chiếm toàn bộ chi khu, diệt 20 tên, bắt sống 50 tên (trong đó có tên quận trưởng), thu 50 súng, một số tiền và vàng, mở trại giam, giải thoát hơn 100 tù nhân. Ta tuyên án xử tử tên quận trưởng ác ôn, cố ý đánh rơi sổ tay có ghi những tên ác ôn ở quận và chi khu là cơ sở của ta. Sau đó địch thanh lọc 18 tên còn lại.
     Quần chúng ở 3 xã Đông Yên, Tây Yên và Đông Thái nổi dậy đánh mõ vang trời, giải tán tề, tổ chức thanh niên cộng hòa... rồi kéo về ruộng vườn cũ. Hôm sau 31-10-1959, hàng chục gia đình binh sĩ kéo tới tề xã, chi khu, đòi bồi thường sinh mạng chồng con, kêu gọi số còn sống, bỏ hàng ngũ địch, trở về nhà.
     Trận đánh Xẻo Rô có tiếng vang lớn trong và ngoài nước. Báo “Thế giới” (Le Monde) của Pháp đưa tin và bình luận, cho đây là sự kiện báo hiệu sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm.


     Sau khi qua phà Tắc Cậu, chúng tôi tiếp tục theo quốc lộ 63 đi qua huyện An Biên, huyện U Minh Thượng, huyện Vĩnh Thuận của tỉnh Kiên Giang; huyện Thới Bình và đến thành phố Cà Mau. Đến thành phố trời đã tối, ngoài trời lại mưa to nên chúng tôi tranh thủ ăn uống trước và về nhận phòng nghỉ ngơi. Sau khi kiểm tra cung đường xong, các bạn được nghỉ ngơi tự do. Thấy còn sớm, nhiều bạn đã tranh thủ dạo phố đêm vì lúc này trời đã hết mưa. Thế là hết ngày thứ 3 cực khổ.
Xin mời xem tiếp phần sau
                                                                        Người viết bài
                                                                        Hồ Thanh Hà

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét