NGUỒN GỐC VIỆT NAM
CỦA TÊN CON GIÁP NGỌ - NGŨ - NGỰA
****************************
CHÚC MỪNG NĂM MỚI GIÁP NGỌ 2014 |
Loài ngựa đã gắn bó với loài
người từ thời Thượng Cổ, không chỉ có ở Việt Nam. Do đó ta cũng có nhiều ca dao,
tục ngữ, khẩu ngữ có hình ảnh loài ngựa - không những thế ngựa đã đóng góp
trong quá trình giữ nước qua truyện thánh Gióng hay Dóng, Đổng 董.
Ngọ hay
Ngũ 午
là chi thứ 7 trong thập nhị chi hay 12 con giáp. Biểu tượng của Ngọ là
con ngựa dùng chỉ thời gian như giờ Ngọ từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều (chính
ngọ là đúng trưa, giữa trưa hay 12 giờ trưa), tháng 5 ... và xác định không
gian như hướng Nam. Phần này không bàn về khái niệm thời không gian hay Ngũ
Hành/kinh Dịch của Ngọ mà chỉ chú trọng vào các liên hệ ngữ âm của Ngọ và ngựa
so với mã 馬
(tiếng Hán Việt/HV cũng chỉ con ngựa). Phần sau sẽ cho thấy mã là tiếng Hán có
gốc Hán Tạng, khác hẳn với ngựa tiếng Việt - và liên hệ trực tiếp của Ngọ và
ngựa cho thấy tên chi này có nguồn gốc Việt (Nam) chứ không phải Trung Quốc/TQ
cũng như tên gọi của 11 con giáp còn lại ...
Ngựa tiếng Thái
là maH ม้า, năm Ngọ là maH-mia มะเมีย hay bpee mah-mia ปีมะเมีย. Điều này cho thấy ảnh hưởng trực
tiếp của TQ (mã là ngựa) cũng như dạng Ngọ HV của tiếng Việt. Tiếng Lào cũng có dạng maH chỉ con ngựa cho thấy vay
mượn từ TQ, sa-nga (ngựa) là một dạng khác trong tiếng Lào có thể là tàn tích
của một nhóm ngôn ngữ liên hệ đến tiếng Ahom (shi-nga), tiếng Lanna (sa-nga)...
Các dữ kiện như tiếng Thái, Lào, Hán Việt ... sẽ không có trích dẫn nguồn (vì
rất dễ kiểm tra lại) so với những bài viết hay tài liệu ngôn ngữ đặc biệt hơn.
Giọng Bắc
Kinh/BK bây giờ được ghi bằng pinyin (bính âm) rất phổ thông, so với các số sau
vần chỉ thanh điệu như ma3 (mǎ BK) hay mẫu tự như H (High, chỉ thanh điệu
cao như tiếng Thái maH) - không nên lầm với các số cho phần ghi chú thêm.
1.GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
Hình ảnh loài
ngựa rất thường gặp trong văn hóa Á Đông, khắp nơi trên thế giới vì các khả
năng chuyên chở, săn bắn và chiến lược cũng như loài ngựa khá dễ thuần hóa.
- Lão kí phục
lịch : chỉ người có chí lớn
- Lão mã thức
đồ : chỉ người thông minh lịch lãm
- Long mã tinh
thần : hàm ý có tinh thần phấn đấu vượt hiểm nguy
- Thiên mã
hành không : hàm ý ung dung tự tại phóng ngựa phi nhanh ...
- Mã đáo thành
công, Mã đáo công thành: việc làm thành công sớm. Thời xưa
khi quân đội xuất chinh thì thường chúc nhau là đánh một lần thì thành công.
Thành ngữ này xuất phát từ Nguyên khúc tuyển, Sở Chiêu Công... Thành ngữ này
rất thông dụng ngay cả bây giờ trong tiếng Việt
- Thiên quân
vạn mã : chỉ thanh thế mạnh mẽ (hùng mạnh)
- Tái ông thất
mã (ông già cửa ải mất ngựa): hàm ý phúc họa không ai biết trước được hay
trong điều xấu có thể có điều tốt …
- Hồ mã Việt
điểu : ngựa Hồ phương Bắc và chim Việt phương Nam khi ở Trung Quốc vẫn nhớ đến
quê cũ
- Mã cách quả
thi : da ngựa bọc thây (trích từ Hậu Hán Thư, câu nói của danh tướng Mã
Viện trả lời Hán Quang Vũ về ý chí làm trai thà chết nơi chiến trường).
- Mã thượng
khán hoa: cưỡi ngựa xem hoa, hàm ý chỉ xem qua loa mà thôi
- Mã giác ô
bạch (sừng ngựa quạ trắng), mã giác ô đầu (sừng ngựa đầu quạ)...đều hàm ý chuyện không thể xảy ra, không thể thực hiện được (ngựa không có
sừng, quạ không thể có màu trắng...)
- Mã bất bội
chủ: ngựa không phản lại chủ, hàm ý trung thành
- Phi lư phi
mã: chẳng phải lừa và chẳng phải ngựa, không giống con giáp nào cả...
- Mã nhĩ đông
phong (gió đông qua tai ngựa): vào tai này ra tai kia, không chú ý hay tập
trung, nước đổ đầu vịt...
- Mã công Mai
tốc (công phu như Mã và nhanh nhẹn như Mai): mọi người đều có khả năng
riêng
- Mã mã hổ hổ:
lè phè, làm việc không cẩn thận...
- Mã ngưu khâm
cư: trâu và ngựa mặt quần áo người, thiếu tư cách... Cách trang điểm phải
thích hợp - so với câu 'cái răng cái tóc là gốc con người' trong văn hóa Việt Nam
- Mã thượng
bất tri mã hạ khổ: người đi ngựa không biết nỗi khổ của người đi bộ (hoàn
cảnh khác nhau khó thông cảm)
- Hại quần chi
mã: con ngựa làm hại cả đàn, hàm ý một cá nhân làm hại cả tập thể...
- Mã đằng vu
tào, nhân huyên vu thất: ngựa chạy trong chuồng và người nói trong phòng -
hàm ý một nơi (cơ sở) to lớn
- Mã kháo an
trang, nhân kháo y thường: cái yên làm nên con ngựa và quần áo làm nên con
người – hay ‘người đẹp nhờ lụa, ngựa đẹp nhờ yên'
- Mã bất đình
đề: ngựa chạy không nghỉ, hành trình không nghỉ...
- Thiên lý mã:
ngựa giỏi, nổi bật. Ngựa xích thổ của Quan Công thời Tam Quốc có thể đi rất xa
(nên còn gọi là thiên lý câu) nhịn ăn mà chết theo chủ cho thấy tính trung
thành của loài ngựa ...
- Án đồ sách
kí: xem tranh để chọn ngựa
- Hãn mã công
lao: giải quyết thành công việc nước
- Phong mã
ngưu bất tương cập: ngựa và trâu có đuổi nhau cũng không gặp, hàm ý hai
vật gì không có liên quan với nhau
- Mã thủ thị
chiêm: đầu làm gì đuôi theo nấy, khi đánh trận phải xem hướng đầu ngựa của
chủ Tướng chỉ huy (tới, lui hay ngừng ...) hàm ý vui vẻ hòa thuận và tuân lời
chỉ huy
- Đao thương
nhập khố, mã phóng Nam
Sơn: đao thương cất vào kho và cho ngựa ăn cỏ ở núi Nam Sơn, thái độ tiêu
cực không phòng bị dễ thất bại (dễ bị kẻ địch phản công).
- Mã đề đao
biều lý thiết thái - trích thủy bất lậu: bần tiện như thái rau cải bằng
móng ngựa - xài nhỏ giọt, keo kiệt ...
- Ngưu tầm
ngưu, mã tầm mã: người cùng bản tính thường tìm đến nhau ...
Mã còn
là một họ TQ, như Mã Viện (danh tướng đời Hán). Tổ tiên Mã Viện giỏi
thuần ngựa nên có danh hiệu là Mã Phục Quân (người giỏi thuần ngựa)…v.v…
Đúng ra ta cần
cả một cuốn sách dầy viết về hình ảnh
của loài ngựa trong văn hóa TQ và VN, tuy nhiên phần này chỉ tóm tắt những câu
thường gặp cho thấy ảnh hưởng sâu xa của loài vật này qua thành ngữ tục ngữ TQ.
Loài ngựa đã gắn
bó với loài người từ thời Thượng Cổ, không chỉ có ở Việt Nam. Do đó ta
cũng có nhiều ca dao, tục ngữ, khẩu ngữ có hình ảnh loài ngựa - không những thế
ngựa đã đóng góp trong quá trình giữ nước qua truyện thánh Gióng hay Dóng, Đổng
董.
Truyện Kiều có
ít nhất 24 câu ‘dính dáng’ đến loài ngựa như
- Ngựa xe như nước
áo quần như nêm
(câu 48)
- Đầu trâu mặt
ngựa ào ào như
sôi
(câu 378)
- Vó câu thẳng
ruổi nước non quê người (câu 1602)...v.v...
Một số ca dao
thành ngữ Việt Nam cho thấy ảnh hưởng của TQ như 'bóng ngựa (câu) qua cửa sổ'
hàm ý thời gian qua nhanh, từ câu nói của Trang Tử (Nhân sinh thiên địa chi
gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt nhiên chi dĩ) và
Bây giờ kẻ Bắc
người Nam
Ngựa Hồ chim
Việt biết làm sao đây
Và Ngựa ai
buộc ngõ ông Cai
Hoàn ai mà lại
đeo tai bà Nghè
Ngựa ai buộc ngõ
ông Nghè
Gà ai lại thả
trước hè ông Cai…v.v…
So với các thành
ngữ tục ngữ khác như: ngựa non (con) háu (sáo) đá, lên xe xuống ngựa, ngựa
quen (theo) dấu (đường) cũ, chạy như ngựa, được đầu voi đòi đầu ngựa, mồm chó
vó ngựa, như ngựa bất kham, một con ngựa đau cả tàu chê cỏ, thẳng (như) ruột
ngựa, thiếu voi phải dùng ngựa, thân (kiếp) trâu ngựa, ngựa long-cong ngựa cũng
đến bến - voi thủng-thỉnh voi cũng đến đò, ngựa dập (xéo) voi giày …v.v…
Ảnh hưởng của
loài ngựa rất sâu đậm trong văn hóa dân gian TQ và Việt Nam như đã thấy bên
trên. Thành ra để thấy rõ nguồn gốc chữ Ngọ từ nền văn hóa cổ điển nào thì ta
phải đi vào chi tiết của cách thành lập chữ và âm Ngọ.
Nếu mã馬được
dùng cho chi thứ 7 thay vì Ngọ thì không ai đặt vấn đề nguồn gốc phi-Hán của
tên 12 con giáp làm gì, nhưng khi xem kỹ lại nguồn gốc thành lập chữ mã từ thời
giáp cốt văn, kim văn, chữ triện ... ta thấy rõ ràng là chữ mã馬tượng
hình con ngựa – xem thêm trang mạng của Richard Sears (cập nhật 2008)
Seal Characters (chữ triện)
Mã 馬
Bronze Characters (kim văn)
Oracle Characters (giáp
cốt văn)
Còn chữ Ngọ午có
nguồn gốc rất khác chữ mã; Xem hình thì ta có thể đoán là một cái chày giã gạo,
liên hệ đến chữ (xử) 杵. Vì cách dùng đặc biệt của Ngọ là chi thứ 7 nên sau này
chữ 杵
mới được tạo ra để chỉ cái chày - xem thêm trang mạng của Richard Sears (cập
nhật 2008)
Seal Characters (chữ triện)
Ngọ 午
Bronze Characters (kim văn)
Oracle Characters
(giáp cốt văn)
…v.v…
Nguồn gốc hình
thành chữ Ngọ qua các thời kỳ giáp văn, kim văn, chữ triện ... như trên cho ta
thấy ngay là Ngọ không có liên hệ gì đến con ngựa như mã HV. Thêm vào đó là sự
vắng bóng của loài vật này trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của TQ cổ đại
: như không có mặt trong nhóm tứ linh (bốn con vật linh thiêng là long, ly,
quy, phượng) hay tam sinh (bốn con vật thường được dâng cúng là trâu, dê, lợn).
Văn hóa du mục của phương Bắc tận dụng loài ngựa nên ta không ngạc nhiên khi
thấy chúng xuất hiện nhiều trong các thành ngữ tục ngữ liên hệ đến chiến tranh,
ngay cả Thuyết Văn Giải Tự (Hứa Thận soạn thời Đông Hán) cũng gói ghém tư tưởng
này trong cách ghi 'Mã, nộ dã, võ dã'!
Như vậy nếu Ngọ
có nghĩa là ngựa thì chữ Ngọ đã được người Hán dùng để ký âm một 'tiếng ngoại
quốc' nào đó (so với chữ mã đã có sẵn) - các tương quan ngữ âm phần sau sẽ cho
ta thấy 'tiếng ngoại quốc' này chính là tiếng Việt (Cổ).
2.PHỤ ÂM ĐẦU NG CỦA NGỌ/NGŨ
Thật ra âm Ngọ
hay Ngũ 午
đã là âm Trung Cổ của âm wǔ BK bây giờ, dạng Ngọ rất gần với các dạng của
phương ngôn miền Nam TQ như Quảng Đông, Hẹ, Phúc Kiến ... Hiện nay giọng BK
không còn phụ âm đầu ng- nữa.
Trích từ các tài liệu âm vận Trung Cổ của chữ Hán
ta thấy cách đọc của Ngọ là [唐韻】【集韻】【韻會】【正韻】疑古切,音五 [ Đường Vận ] [
Tập Vận ] [ Vận Hội ] [Chánh Vận ] nghi cổ thiết , âm Ngũ - đều
cho thấy phụ âm đầu là ng- (phụ âm vang gốc lưỡi). Các tác giả như Axel
Schuessler (2007) và William Baxter (1992) đều phục hồi
âm Ngọ Thượng Cổ với dạng *nga?, nhưng theo người viết và dựa vào dạng *mangơơ
của tiền Việt-Mường-Pakatan theo Michel Ferlus thì âm Ngọ Thượng Cổ
có thể là *ngwa hay *ngua. Dạng *ngwa đã cho ra âm ngựa
tiếng Việt và Mường (Bi) bây giờ. Tiếng Việt không có các dạng ngua, ngụa, ngúa,
ngủa...
3.NGUYÊN ÂM O VÀ U CỦA NGỌ/NGŨ
Ít người biết
rằng Ngọ còn có thể đọc là Ngũ (xem phần 2 bên trên). Chính vì vậy mà ta thường
nghe nói đến Ngọ Nhật (ngày Ngọ) là ngày mồng năm tháng năm âm lịch hay còn là
tết Đoan Ngọ (Đoan Ngũ). Tương quan giữa hai nguyên âm sau (back vowels)
o, u khá rõ nét qua các cặp võ vũ, trong trung, tòng tùng, tông tung,
dong dung, thong (dong) thung (dung), dõng dũng, khom khum, mồng mùng, xông
xung …v.v…
Một cách khác để
xem những âm đọc của Ngọ khi xưa ra sao là phân tích các chữ Hán dùng chữ Ngọ
làm âm phù. Cũng như các chữ Hán ký âm tên 12 con giáp, Ngọ cũng được dùng làm
thành phần hài thanh/HT trong quá trình cấu tạo chữ Hán suốt chiều dài lịch sử
- ta hãy xem vài chữ Hán có thành phần HT là Ngọ và các dạng biến âm trong
tiếng HV, Việt :
3.1 Ngự viết là 馭 hay 御 (chữ
này dựa vào bộ sách, làm mất đi các liên hệ ngữ âm của ngự - ngựa). Nghĩa
nguyên thủy của ngự là người cầm roi hay cương ngựa để điều khiển (xem giáp
văn, kim văn), sau mở rộng nghĩa là phòng ngự (phòng ngừa). Ngừa chính
là một dạng cổ của ngự. Có tác giả dựa vào chữ ngự (dây cương) này
để liên kết Ngọ với ngựa trong hệ thống ngữ âm thuần Hán, nhưng lý luận từ cụm
từ dây cương dẫn đến danh từ ngựa không hợp lý vì ngựa hiện diện trước dây
cương (dụng cụ kiểm soát ngựa, chế ngự) nên quá trình thành lập chữ phải là
ngựa > dây cương. Tương tự như vậy, tên 12 loài vật cụ thể phải có trước khi
chúng được dùng để chỉ khái niệm thời gian như năm sinh hay các khái niệm bói
toán trừu tượng hơn! Đây cũng là lý luận gà-hay-trứng-gà (chicken or
the egg) giai đoạn nào có trước và rất dễ đi vào vòng lẩn quẩn ...
3.2 Hứa viết là 許 còn
đọc là hổ, hử theo Tập Vận, Vận Hội ... Biến âm từ Ngũ Ngọ thành hứa có thể
giải thích dựa vào vị trí phát âm cuối họng (yết hầu) của ng- và h- cũng như
u/o thành -ưa
3.3 Ngỗ viết là 仵, 忤, 迕 ...
đều cho thấy âm Hán Cổ của thành phần hài thanh Ngọ Ngũ 午 … Ngỗ 忤
nghịch 逆
(không nghe lời) thường gặp trong tiếng Việt, cho thấy phần nào nghĩa mở rộng
từ các hoạt dộng điều khiển, kiềm chế (chế ngự) loài ngựa. Quá trình mở rộng
nghĩa từ cụ thể đến trừu tượng còn thấy trong cách nói 'thua ngựa một cái
đuôi' (hàm ý dâm dật, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị - 1895); Bây giờ tiếng Việt
vẫn còn dùng tiếng lóng (chửi tục) như 'ngựa bà' cùng một ý.
Từ phân tích ngữ
âm trên : *Ngọ - ngự - ngừa, *Ngọ - hứa , Ngọ - ngựa ... Ta có thể xác nhận
tương quan giữa âm Ngọ Ngũ và ngựa tiếng Việt7. Ngoài
ra, tương quan u - ư - ưa còn thấy rất rõ nét khi nhìn rộng ra cho hệ thống âm
thanh HV qua các cặp từ HV và Việt sau đây :
Phù 符 bùa,
phụ 婦
bụa (quả phụ - góa bụa), phô phố 鋪- búa (chợ búa), phủ 斧 búa -
bừa, vụ 務
mùa, vũ 舞
múa, vô mô 無
mựa (không), thâu thú 輸 thua, lư 驢 lừa (con lừa), lữ 侶 lứa (đôi lứa), trừ 除 chừa,
trữ 貯
chứa, cự 距
cựa, cứ 鋸
cưa, sơ 疏
thưa, dũ (dữu, 庾)
vựa, trú 晝
trưa ban ngày), tự 寺 chùa, chủ 主 chúa, chú 註 chua (chú sách), du 諛 dua
(a dua, nịnh hót), tu 鬚 râu, tua tủa ...v.v...
Chính vì sự vắng
mặt của nguyên âm đôi -ua trong tiếng Hán mà tác giả Paul Benedict còn đề nghị
kỵ (kị) 騎
(qí BK) cũng có nguồn gốc phương Nam - để ý tiếng Việt còn duy trì âm cổ là
cưỡi hay cỡi, tiếng Thái cưỡi ngựa là ขี่ม้า
kèe máa (qí mǎ 騎馬 giọng BK - nhưng Axel Schuessler4 lại
cho rằng kỵ đã nhập vào các ngôn ngữ ở Đông Nam Á).
Tóm lại, ta có
cơ sở rất vững chắc để thành lập liên hệ Ngọ Ngũ 午 và ngựa - tên gọi loài vật này trong
tiếng Việt. Liên hệ này không hiện diện trong tiếng Hán qua các thời đại hay
các ngôn ngữ khác trong vùng, giải thích được khả năng nguồn gốc
tên con giáp Ngọ hay Ngũ này là từ tiếng Việt (Cổ).
Các tương quan
ngữ âm Tý-chút-chuột, Mão-Mẹo-mèo, Hợi-gỏi-cúi, Sửu-tlu/klu-trâu, Ngọ-Ngũ-ngựa
... Tiếng Việt cho ta thấy ngay tương quan mật thiết giữa các tên 12 con giáp
và tên gọi các loài vật liên hệ. Điều này không hiện diện rõ ràng như vậy khi phân
tích tên 12 con giáp trong tiếng Hán hay các ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á - người
Hán có lúc phải dùng hai từ đi chung để hiểu nghĩa của chúng như丑牛Sửu
ngưu, 卯兔
Mão thố, 亥豕Hợi
thỉ, 午馬Ngọ
mã ... Nhờ vào các mối dây âm thanh mà dấu ấn vẫn còn rất đậm trong tiếng Việt
(khẩu ngữ) và sự chuyên cần ghi nhận của người TQ (qua các tài
liệu cổ bằng chữ Hán) mà ta có thể cảm nhận được phần nào chủ đề của loạt
bài viết này
Trăm năm bia
đá thì mòn
Ngàn năm bia
miệng vẫn còn trơ trơ
4.PHỤ CHÚ VÀ PHÊ BÌNH THÊM
Phần này không
hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao
gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể tra
cứu thêm chi tiết và chính xác. Loạt bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi
12 con giáp" (cùng tác giả) đã có một số đăng trong Kỉ Yếu Hội Thảo Ngôn
Ngữ Học, Việt Nam Học và các trang mạng văn hoá như vanchuongviet.org,
khoahocnet.com, e-cadao.com ....v.v...
Xem lại cách
phân loại khoa học của loài ngựa :
- Giới (regnum): Animalia
- Ngành (phylum): Chordata
- Lớp (class): Mammalia
- Bộ (ordo): Perissodactyla
- Họ (familia): Equidae
- Chi (genus): Equus
- Chi này cho ra các loài lừa (ass/donkey) ngựa vằn (zebra), ngựa ...v.v...
Để ý : lư 驢 bộ mã + chữ lư hài thanh là con lừa
- Loài (species):
E. caballus
Các nghiên cứu
về mitochondrial DNA (mtDNA) cho thấy ngựa thuần hoá (domestic horse) có thể
phát sinh từ nhiều nơi cùng lúc và dần dần thích ứng với từng địa phương - còn
gọi là thuyết Bốn Nguồn Gốc (Bắc, Nam Âu Châu và Bắc, Tây Á Châu) của loài ngựa
(Four Foundations Theory) . Các khảo cứu ở TQ dựa vào kết quả phân tích DNA
của các xương ngựa hóa thạch cách đây hơn 2000 năm cho thấy nguồn gốc của chúng
rất phức tạp - xem bài báo cáo năm 2008 'Ancient DNA provides new
insights into the origin of the Chinese domestic horse'.
Trước đây, lịch
sử thuần hoá loài vật thường là đề tài nghiên cứu của các ngành Khảo Cổ hay
Nhân Chủng Tiến Hoá Học (Evolutionary Archaology, Anthropology) ... Nhưng gần
đây hơn, các tiến bộ về Di Truyền Học Phân Tử (Molecular Genetics) đã đóng góp
rất nhiều vào quá trình xác định nguồn và thời gian thuần hoá. Tuy nhiên các
kết quả cần phải kiểm nghiệm chính xác cũng như phù hợp với các kết quả từ ngôn
ngữ, lịch sử, khảo cổ cũng như văn hoá dân gian…v.v… Một vài bài báo cáo như
trên không đủ dữ kiện về nguồn gốc chính xác cũng như tính phân bố thời không
gian của loài ngựa. Tuy nhiên ta cũng nên tham khảo thêm các kết quả cập nhật
về Di Truyền Học để hỗ trợ cho các kết quả dùng dữ kiện ngôn ngữ, khảo
cổ, lịch sử ... và để cho thấy vấn đề tổng quát và thích hợp hơn.
Theo www.daophatngaynay.com
Sưu tầm và đăng bài
Hồ Thanh Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét