9 tháng 2, 2013

Anh hùng, danh nhân và trí thức tuổi Tỵ của Việt Nam

MỘT SỐ ANH HÙNG, DANH NHÂN VÀ TRÍ THỨC TUỔI RẮN CỦA VIỆT NAM
*********************
Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh (Ất Tỵ 225 - Mậu Thìn 246)
     Nữ anh hùng dân tộc, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô trong thời Bắc thuộc. Tên thật là Triệu Thị Trinh hay Triệu Trinh Nương. Sử cũng gọi là Nhụy Kiều tướng quân, hay Lệ Hải bà vương, quê ở Cửu Chân, huyện Nông Cống (nay thuộc vùng núi Quan Yên, miền Định Công - Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa)
     Bà giỏi võ nghệ, có chí lớn. Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, bà nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, cỡi ách nô lệ, há chịu cúi đầu là tỳ thiếp người ta ư?". Bà cùng anh là Triệu Quốc Đạt chiêu tập nghĩa quân, quyết lòng đánh đuổi quân Ngô cứu nước, cứu dân.


     Năm 1948, cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Giữa lúc trận chiến ác liệt với quân Ngô, anh bà đột ngột lâm bệnh rồi mất, bà vẫn tiếp tục chỉ huy dân quân đánh đuổi quân giặc. Tướng Ngô là thứ sử Lục Dận dùng của cải quyền tước mua chuộc một số tù trưởng khiến một số người rời bỏ cuộc chiến đấu, rồi đem quân đàn áp nghĩa quân dữ dội. Thất bại bà chạy đến Bộ Điền (Phú Điền, Mỹ Hóa) tự đâm cổ hy sinh trên đỉnh núi Tùng.
     Về sau Lí Nam Đế có lập miếu thờ bà và truy phong là "Bật chính anh hùng tài trinh nhất phu nhân".

Cao Bá Quát (Kỷ Tỵ1809 - 1854).
     Danh sĩ đời Tự Đức. Tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường. Quê làng Phú Thị huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Ông là anh em sinh đôi với Cao Bá Đạt, nổi tiếng văn chương đương thời. Tổ xa đời là Cao Bá Hiên làm đến Thượng thư bộ Binh đời Hậu Lê. Cha là Cao Cửu Chiến, cũng là bậc tài danh đương thời. 
     Năm 1831, ông 22 tuổi, đậu á nguyên trường thi Hà Nội nhưng thi hội 2 năm đều bị đánh hỏng, ông không thi nữa, ngao du non nước. 

     Năm 1841 quan đầu tỉnh Bắc Ninh đề cử ông với triều đình, ông được trệu vào kinh sung chức Hành tẩu bộ Lễ. ít lâu, được cử chấm thi ở trường Hương - Thừa thiên, ông và bạn đồng hội là Phan Nhạ dùng khói đèn sửa một ít quyển văn hay mà phạm húy, toan cứu vớt thí sinh giỏi. Việc phát giác, bị khép tội khi quân nhưng vua Thiệu Trị giảm tội cho ông, chỉ cách chức và phát phối vào Quảng Nam. Gặp khi có sứ bộ Đào Tri Phú sang Singapore công cán, ông được tha cho nơi khỏi phối sở, theo sứ bộ đi công cán chuộc tội. Xong việc trở về, ông được phục chức cũ, rồi thăng làm Chủ sự. 
     Năm 1854, ông phải đổi lên Sơn Tây, làm Giáo thọ ở phủ Quốc Oai. Buồn chán, phẫn chí, ông bỏ quan theo làm quân sư cho Lê Duy Cự chống lại triều đình. Việc khởi nghĩa ở Mỹ Lưong thất bại, ông bị bắt rồi bị hành quyết cùng với hai con là Cao Bá Phùng và Cao Bá Phong. Anh ông là Cao Bá Đạt cũng bị liên lụy. Ông để lại cho đời bộ sách "Chu thần chi tập". Thơ văn ông dùng bằng chữ Hán hay chữ quốc văn đều hay.

Đào Tấn: (Ất Tỵ 1845-1907). 
     Là danh sĩ, nhà soạn tuồng cận đại. Còn có tên là Đào Tăng Tiến, Đào Tiến, tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng. Sinh tại làng Vĩnh Thạnh, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Lúc nhỏ ông là học trò của cụ tú Nguyễn Diêu, tác giả của nhiều vở tuồng có tiếng. 

     Chịu ảnh hưởng của thầy học nên ông đã tập viết tuồng từ thuở còn bé. Năm 22 tuổi, ông đậu cử nhân 4 năm sau ông làm Hiệu thư ở Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh vua Tự Đức. 
     Năm 1874, ông được bổ làm Tri phủ Quảng Trạch, sau thăng Thừa chỉ, Thị độc, rồi Phủ doãn tỉnh Thừa thiên. Khi vua Tự Đức mất (năm 1883), ông cáo quan về nhà, nhưng sau đó lại ra làm quan dưới triều Đồng Khánh. Năm 1889, ông được bổ làm Tổng đốc An - Tĩnh (Nghệ An - Hà Tỉnh), rồi lần lượt làm Thượng thư bộ Công, bộ Binh, bộ Hình. 
     Vì mâu thuẫn với tên việt gian Nguyễn Thân, Thượng thư bộ Lại, một kẻ thân Pháp, ông xin về hưu khoảng năm 1902. Ông nổi tiếng thanh liêm, công minh, đuợc hầu hết sĩ phu trọng vọng, lại giỏi văn chương, thích soạn tuộng hát. Chính ông lập ra môn hát bộ ở Bình Định. Tại quê nhà có lập một trường dạy kịch nghệ gọi là Học bộ đình. Ông mất năm 1907, thọ 62 tuổi.

Trần Hữu Trí (Đinh Tỵ 1917 - Tân Mão 1951)
     Nhà văn, bút danh Nam Cao, sinh ngày 29/10/1917 tại làng Đại Hoàng, Cao Đà, huyện Nam Song, nay là xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

     Trước Cách mạng tháng Tám, ông dạy học tư, sáng tác văn học, nổi tiếng với các truyện ngắn, tiểu thuyết xã hội. Năn 1943, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc, Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông tham gia hoạt động tích cực ở quê ông. Năm 1946 nhập đoàn quân Nam tiến vào miền nam Trung bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm công tác tuyên truyền, báo chí và văn nghệ ở Việt Bắc.
     Ngày 30/11/1951 ông hi sinh tại bót Hoàng Đan, Gia Viễn, Ninh Bình trên đường đi công tác vào vùng địch.
     Các tác phẩm chính của ông đã được xuất bản: Chí phèo, Sống mòn, đôi mắt, truyện ngắn Nam Cao,....

Lê Văn Thới (Đinh Tỵ 1917- Quý Hợi 1983)
     Nhà khoa học, giáo sư, sinh ngày 3/9/1917 tại Gò Dầu, Tây Ninh. Con nhà thanh bần, siêng năng, chất phác. Sau khi đỗ tú tài toàn phần, ông được học bổng du học ở Pháp.
     Năm 1942 đỗ cử nhân khoa Lí Hóa, rồi đỗ đầu kĩ sư hóa học (1943). Đến 1947 đỗ tiến sĩ quốc gia, hạng tối danh dự với lời ban khen của Hội đồng giám khảo.
     Từ 1947 - 1956 ông phụ trách nhiều đề tài Hóa học hữu cơ cơ cấu, là Trưởng ban khảo cứu cây thông của viện Đại học Bordeaux Pháp.
     Từ 1956 - 1958, ông làm trưởng phòng khảo cứu sinh học tại Sở khai thác thuốc lá và diêm quẹt ở Paris và khảo cứu các chất gây ung thư của khói thuốc lá.
     Về nước từ năm 1958, ông giữ nhiều chức vụ trong ngành đại học và trong khảo cứu khoa học. Ông luôn theo dõi và nghiên cứu hóa học hiện đại, làm giáo sư tại trường Đại học khoa học Sài Gòn (nay là trường Đại học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh)

     Điều ông đặc biệt quan tâm là đặt nền móng tân tiến cho nền thuật ngữ Việt Nam, tiếp tục công trình mà Hoàng Xuân Hãn đã khởi sự. Từ năm 1970, ông cùng các đồng nghiệp gây dựng nên ủy ban soạn thảo danh từ chuyên môn, đề ra nguyên tắc soạn thảo danh từ chuyên môn. Dù bận rộn đến đâu, ông cũng vẫn đến chủ trì buổi họp của ủy ban Danh từ vào mỗi sáng thứ 7 tại bộ Giáo dục Sài Gòn.
     Sau 1975, ông là chủ tịch Hội trí thức yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh, giáo sự Đại học Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
     Năm 1983 ông mất, thọ 66 tuổi. Giới khoa học, văn hóa và mọi người đều có tình cảm thân thiết đều thương tiếc ông.

Nguyễn Khắc Nhu: (Tân Tỵ1881 - 1930)
     Ông là lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sinh tại làng Song Khê, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. 

     Năm 1912, ông đỗ đầu xứ trong kỳ thi khảo hạch tại Bắc Ninh (vì thế ông được gọi là Xứ Nhu). Ông sang Quảng Tây gia nhập Việt Nam Quang phục quân để đánh đuổi thực dân. Ý nguyện không thành, ông trở vê quê mở trường dạy học và lo tổ chức lực lượng chuẩn bị nổi lên chống Pháp. Ông tổ chức Hội Việt Nam Dân quốc có cơ sở ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. 
     Năm 1927, Hội dự định đánh chiếm Bắc Ninh rồi tiến về Hà Nội, nhưng kế hoạch bị bại lộ. Năm 1928, ông đưa hết người trong tổ chức của mình gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học thành lập. Ông trở thành một trong những lãnh tụ chủ chốt của Đảng này, được bầu là trưởng ban Lập pháp; Nguyễn Thái Học làm Phó ban. 
     Năm 1929, sau khi Việt Nam quốc dân Đảng tổ chức ám sát được chủ sở mộ phu Bazin, thực dân Pháp đã kết tội ông và các lãnh tụ khác của Đảng. Ông bị kết án vắng mặt 20 năm cấm cố. Ngày 10/2/1930, ông cùng Nguyễn Thái Học quyết định khởi nghĩa nhưng không thành, ông bị thương, bị giặc Pháp bắt. Ông tự tử trong nhà giam ngày 11/02/ 1930.
Sưu tầm và đăng bài
                                                                            Hồ Thanh Hà

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét