NĂM TỴ, NÓI CHUYỆN RẮN VÀ …THƠ
*************************
Năm Thìn qua đi nhường chỗ cho
cho năm Tỵ tới. Năm Tỵ - năm con Rắn. Theo Âm lịch, cách tính ngày tháng
theo sự vận chuyển của mặt trăng thì Rắn là con giáp thứ 6 trong 12 con giáp
trong một tiểu chu kỳ.
Chúc mừng năm mới Quý Tỵ 2013 |
1.Nói đến rắn, ấn tượng
trong trí não và tình cảm của con người thì đó là loài bò sát, ăn bẩn, độc hại.
Nhưng rắn lại đi vào kho tàng của Tục ngữ Việt Nam lí thú và sinh động
như trong một bài viết công phu cách đây cũng vừa tròn một giáp (1) “Nói về
đặc điểm của loài rắn và cũng ám chỉ tính cách, hành động của con người có
những câu: "Thẳng như rắn bò", "Thao láo như mắt rắn ráo",
"Oai oái như rắn bắt nhái", "Bạnh cổ như cổ hổ mang",
"Len lét như rắn mùng năm"... hoặc nói kẻ hay bịa đặt, ba hoa quá sự
thật "vẽ rắn thêm chân"... hoặc lấy hình ảnh con rắn để nói đến tâm
địa con người: "hang hùm miệng rắn", "miệng hùm nọc rắn",
"ấp rắn trong lòng", "khẩu Phật tâm xà", "khẩu xà tâm
Phật", "rắn đổ nọc chỗ lươn"... Đối với những kẻ "khôn
nhà dại chợ", phản bội gia đình, tổ quốc đã có hành vi "cõng rắn cắn
gà nhà"...
Rắn độc tượng trưng cho hình ảnh của kẻ xấu |
Cũng từ sự lí thú đó, giở lại
Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du đã từng được đánh giá kỳ tài trong sử
dụng ngôn ngữ thơ vừa bác học vừa dân gian ta lại bắt gặp những câu Kiều dựng
chân dung Hoạn Thư mang hơi thở…rắn: “ Bề ngoài thơn thớt nói cười/ Mà trong
nham hiểm giết người không dao”. Nhân vật đã “đi vào” đời sống với tính
cách, thủ đoạn đánh ghen có một không hai khi Thúc Sinh hồi gia dự định “trình
báo” với phu nhân việc đã lấy lẽ Thúy Kiều thì mụ vờ như không biết, không hỏi
đến mà trong lòng đã sắp đặt hết mọi việc “kinh thiên động địa” như chúng ta đã
từng đọc Truyện Kiều. Dã tâm đó còn cách gọi tên nào chính xác hơn, “ấp rắn
trong lòng”, “khẩu phật tâm xà”!
Trong thơ dân
gian,(2) các hiệp sĩ rượu (theo xưng danh ngày nay) vẫn xem rắn là
mồi nhậu đặc sản dân dã đầy khoái khẩu:
Cần chi cá
lóc, cá trê
Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều
Còn trong mảng
đề tài tình yêu nam nữ ngọt ngào với những câu hò đối đáp kiểu dạng “mận –
đào”, “lê – lựu”, ví von ẩn dụ của “bắc cầu dãi yếm”, “rơi khăn, mất
áo”…từng là suối nguồn cho nhiều thế hệ thi nhân Việt, vậy mà rắn cũng chen
mình góp mặt. Những chàng trai, cô gái đi tìm bạn kết mối trăm năm cất lời giao
duyên trong dịp hội hè đông vui, lao nhọc đồng áng với lời dẫn lai láng tình
xuân: Con rắn hổ mang nằm cây thục địa/ Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên/
Phận em là gái thuyền quyên? Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê”. Câu đố và
lời đáp nhịp nhàng, dập dềnh như lúa đồng dậy thì lả lơi trong gió:
- Con gì có
cánh không bay?
Con gì không
cẳng chạy bay năm rừng?
- Con gà có cánh không bay
Con rắn
không cẳng chạy bay năm rừng
- Con gì không chân đi năm rừng, bảy rú?
Con gì không
vú nuôi chín, mười con?
- Con rắn không chân đi năm rừng bảy rú
Con gà không vú nuôi chín, mười con
Chẳng có gì lắt
léo làm khó, đau đầu như kiểu cấu đố “không thế này mà là vật kia, cái nọ”
(Dầu gì dầu không thắp/ Bắp gì bắp không rang…) vói chàng trai. Cô gái còn
tình tứ, ngọt ngào thúc giục:
Anh vẽ rồng
rắn làm chi?
Cho em mệt
trí nghĩ suy đêm ngày!
Nói đi, nói
đại, sợ gì?
Em đây hiểu
được, tình này em trao!
Rắn đáng
sợ, gây hại, gây chết cho người nhưng trong môi trường giao duyên, rắn xe
duyên kết tóc lứa đôi!
Rắn cũng là biểu tượng xe duyên kết tóc |
2. Trong
lịch sử của dân tộc Việt (3) , án oan mà đại công thần Nguyễn Trãi ( 1380 –
1442) dưới triều Lê Thái Tông vướng phải dẫn đến thảm kịch bị giết và cả ba họ
bị tru di mãi đến 22 năm sau mới được vua Lê Thánh Tông giải oan cũng gắn kết
với rắn qua truyền thuyết rắn báo oán.
Để trả thù cho đàn con bị
lính hầu của Nguyễn Trãi giết hại khi ông lập vườn ở ẩn, Rắn mẹ hiện thân
nơi Thị Lộ thả thuyền bán chiếu gon ở Tây Hồ. Ngoài dung nhan dễ xiêu lòng
người, nàng còn có tài văn chương, thi phú. Trong một dịp tình cờ tình cờ, trai
anh hùng – gái thuyền quyên tương phùng, Thị Lộ trở thành tì thiếp của Nguyễn
Trãi.
Với tài năng, nhan sắc ấy nàng còn được vua Lê Thái Tông sủng ái. Kết
cuộc nhà vua băng hà trong đêm Thị Lộ hầu hạ trong lúc về thăm Nguyễn Trãi ở
Côn Sơn vào năm Nhâm Tuất 1442. Thị Lộ bị xử tội chết ngay sau đó. Đồng thời
bọn gian thần từ lâu đố kỵ có cơ hội vu tội Nguyễn Trãi chủ mưu sát đế! Giọt
máu đào thấm ba trang sách năm xưa mà rắn mẹ sẽ báo thù từ mái nhà nhỏ
xuống như điềm báo trước chỉ ba họ của Nguyễn Trãi bị chết thảm. Tố Hữu đã có
những câu thơ đầy niềm cảm khái từ sự kiện lịch sử này:
Nghe hồn
Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm
khua, tiếng thơ kêu xé lòng
(Bài ca mùa xuân 1961)
Cũng từ truyền
thuyết rắn báo oán, Nguyễn Trãi lúc ấy đã qua ngũ thập (?), Thị Lộ mới
vào độ trăng tròn, cặp tài tử - giai nhân hiếm thấy trong lịch văn học Việt Nam
đã để lại đời sau khúc xướng họa độc đáo:
Ả ở nơi đâu,
bán chiếu gon?
Chẳng hay
chiếu đã hết hay còn?
Xuân xanh
chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng
chưa? Được mấy con?
Tôi ở Tây Hồ
bán chiếu gon
Cớ chi ông
hỏi hết hay còn?
Xuân xanh
mới độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Vẫn chuyện về rắn,
trong Văn học sử nước nhà (4) vẫn còn truyền một bài thơ độc đáo, câu nào cũng
đều có tên một loài rắn. Tác giả chính là Bãng Nhỡn Lê Quý Đôn
(1726-1784) tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, sinh ra trong niên hiệu Bảo Thái
thứ 7 (1726), đời vua Lê Dụ Tông, thời chúa Trịnh Cương ở xã Diên Hà, tỉnh Sơn
Nam (nay là tỉnh Thái Bình). Từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng và có trí nhớ tuyệt
vời nhưng cũng lười học, rắn đầu hay nghịch phá như bao cậu bé khác. Người cha
nghiêm khắc trách phạt. Ông chuộc lỗi bằng một bài thơ Đường luật thất ngôn bát
cú theo điều kiện ngặt nghèo: rắn có trong từng câu thơ. Bài thơ có tên
“Rắn đầu” như sau:
Chẳng phải
liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu
biếng học, chẳng ai tha
Thẹn đèn hổ
lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai
gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ
quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam
chịu vết roi tra.
Từ nay Trâu
Lỗ chăm nghề học .
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Nhưng không chỉ
một mà đến hai bài thơ. Vì bài thơ này nếu bớt đi hai chữ ở đầu mỗi câu,
ta sẽ được thêm một bài Ngũ ngôn bát cú:
Liu điu vẫn
giống nhà
Biếng học,
chẳng ai tha
Hổ lửa đau
lòng mẹ,
Mai gầm rát
cổ cha.
Chỉ quen
tuồng nói dối,
Cam chịu vết roi tra.
Trâu Lỗ chăm
nghề học.
Mang danh tiếng thế gia.
Quả là không hổ
danh thần đồng Lê Quý Đôn!
3. Chuyện
về rắn và…thơ ca, lịch sử nếu bỏ công lượm lặt, sưu tầm (*) để thưởng
thức mấy ngày xuân TỴ cũng còn khối chuyện. Như “ông hoàng của thơ tình” Việt
Nam – Xuân Diệu đã từng gây ấn tượng với “đôi cánh tay rắn” tham lam vồ
vập MÙA XUÂN, TÌNH YÊU.
...Ta muốn
ôm,
Cả sự sống
mới bắt đầu mơm mởn;
Ta muốn riết
mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say
cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều…
Và:
Hỡi xuân
hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội Vàng)
(*) Các bài tham khảo:
- (1), (2) Rắn trong văn hóa dân gian – Rắn trong tục
ngữ - Trần Trọng Trí.
- (3), (4) Năm Tỵ nói chuyện Rắn – Hương Giang Thái Văn
Kiểm.
Theo Nguyễn Nguyên Phương
Người đăng bài
Hồ Thanh Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét