NĂM TỴ NÓI CHUYỆN RẮN
*********************
Năm Tỵ là
năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn. Con rắn trong
nhà Phật đã có đề cập tới. Như trong kinh Niết-bàn đức Phật nói có một người
nuôi bốn con rắn độc trong một cái lồng, chúng luôn luôn thù địch cắn xé lẫn
nhau.
Hôm nay, Tết
Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tất cả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc
mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm
Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn. Con rắn
trong nhà Phật đã có đề cập tới. Như trong kinh Niết-bàn đức Phật nói có một
người nuôi bốn con rắn độc trong một cái lồng, chúng luôn luôn thù địch cắn xé
lẫn nhau. Người chủ nuôi bốn con rắn này có bổn phận phải điều hòa, ngăn không
cho chúng cắn nhau. Nếu con mạnh hiếp con yếu thì người chủ phải can thiệp làm
sao cho chúng thuận hòa. Khổ thay bốn con rắn không bao giờ thuận hòa, con này
chực hại con kia, con kia chực hại con khác. Vì thế người chủ lúc nào cũng phải
đem hết tâm lực trông chừng chúng từng phút từng giây. Nhưng dù cho người chủ
có thật giỏi, thật thông minh, đến một lúc nào đó, chúng cũng cắn nhau kịch
liệt rồi mỗi con chạy một nơi... khi ấy người chủ hết bổn phận.nguoi
Bốn con rắn
đức Phật dụ cho bốn thứ: đất, nước, gió, lửa. Rắn hổ lửa không ưa rắn nước, rắn
hổ đất không ưa rắn gió, tức là rắn hổ mây, thường phóng ngược trên đầu cây.
Chúng đều là rắn độc, không ưa nhau lại bị bắt ở chung một chỗ, nên lúc nào cũng
cắn lộn nhau. Việc người chủ điều hòa cho bốn con rắn ở yên trong lồng cay đắng
trăm phần! Cũng như thế, thân chúng ta gồm bốn đại: chất cứng trong người là
đất, chất ướt là nước, động là gió, ấm là lửa. Nước kỵ với lửa, gió kỵ với đất…
khi nước thắng lửa, nghe người lạnh phát run, còn khi lửa thắng nước, nghe nóng
bức, nhức đầu, khó chịu. Lúc nóng phải tìm thứ gì mát uống vào để giảm nhiệt
độ, hạ lửa xuống cho quân bình với nước. Lúc nước nhiều, lửa thiếu lại phải tìm
thứ gì nóng uống vào để nâng lửa lên, hạ nước xuống cho quân bình. Khi gió mạnh
quá, đất chịu không nổi, vì gió thổi đất rung rinh nên ê mình, lúc đó phải cạo
gió. Cạo gió một lát mình bầm hết, gió bớt, đất quân bình trở lại nên hết đau.nguoiphattu.com
Vua Rắn |
Bốn chất đất, nước, gió,
lửa cứ công kích nhau luôn, chúng ta lại là người chủ điều hòa chúng. Cả ngày
làm việc này, việc kia nhưng thường chú ý đến bốn đại, xem hôm nay mình lạnh
hay nóng, có bị gió hay không, nghĩa là vừa thấy trong người hơi lạ là chuẩn bị
mời thầy thuốc hoặc gọi người này, người kia đánh gió liền. Như vậy từ khi bắt
đầu hiểu biết cho đến ngày chết, việc làm của chúng ta chỉ là điều hòa bốn đại
thôi!
Ông chủ điều hòa bốn con rắn kia
nhọc nhằn từ ngày này qua tháng nọ nhưng rốt cuộc có điều nổi không? Vì chúng
chống trái nhau nên đến một lúc nào điều hòa không nổi, chúng cắn nhau kịch
liệt rồi chạy tứ tán và khi đó ông chủ hết việc. Cũng thế, đất, nước, gió, lửa
công kích nhau đến hôm nào một thứ mạnh quá, chúng ta điều không nổi thì lúc đó
tan rã ra, mỗi thứ một nơi. Khi ấy chúng ta ra sao? Chết! Như vậy xét thật kỹ,
từ khi chúng ta bắt đầu khôn ngoan một chút cho đến tuổi già, suốt quãng đời đó
chúng ta thấy quả là đáng buồn, nghĩa là suốt đời chúng ta cố gắng lo cho có
thứ này thứ kia, làm việc này việc khác cũng đều nhằm bồi dưỡng cho tứ đại. Thở
là bồi dưỡng cho gió, uống là bồi dưỡng cho nước, ăn là bồi dưỡng cho đất, khi
uống lựa chất nóng uống vào, khi ăn lựa chất ấm ăn vào là bồi dưỡng cho lửa.
Thế thì cả ngày chúng ta chỉ làm bao nhiêu việc đó. Nếu khi nào cổ như có gì
ngăn, hơi thở không thông thì phải kiếm thầy làm cho nó thông. Khi nào ăn uống
thiếu chất nóng thì sanh bệnh lạnh, thiếu chất mát thì sanh bệnh nóng, cứ phải
lo bồi dưỡng điều hòa cho chúng quân bình. Nhưng chúng ta bồi dưỡng có xong
không? Đến một thời gian nào đó chúng cũng phải rã, phải tan nát. Chúng ta làm
việc này giống như người điều hòa bốn con rắn vậy. Thế nên ngày xưa, Thiền sư
Đại Xả ở Việt Nam
có bài kệ về bốn con rắn như thế này:
Tứ xà đồng khiếp bản lai
không,
Ngũ uẩn sơn cao diệc bất tông,
Chân tánh linh minh vô quái
ngại,
Niết-bàn, sanh tử nhậm già
lung.
Dịch:
Bốn rắn chung rương trước giờ
không,
Núi cao năm uẩn đâu chủ ông?
Chân tánh sáng ngời không
chướng ngại,
Niết-bàn sanh tử mặc che lồng.
Qua bài kệ này chúng ta thấy ngài
Đại Xả căn cứ trong kinh Niết-bàn nói về bốn con rắn. Bốn con rắn đó ở chung
trong một cái rương hay một cái chậu. Trước khi bỏ vào chậu, chúng có ở tại
chậu chưa? Chưa, vì mới đem bỏ vào nhưng khi ở trong chậu rồi chúng nó lại công
kích, phá phách lẫn nhau. Đây là nói khi tứ đại chung hợp trong sự chống nghịch
nhau.
Đến câu thứ hai Ngài nói: “Núi
cao năm uẩn đâu chủ ông?” Thân năm uẩn là cộng cả sắc và thọ, tưởng, hành,
thức, tức là vật chất và tinh thần. Khó có người biết trong năm uẩn cái gì là
Ông chủ, nhưng thật ra trong năm uẩn này vẫn có Ông chủ. Ông chủ đó là gì?
“Chân tánh sáng ngời không chướng ngại”, nghĩa là ngay nơi mỗi người chúng ta
đều có cái Chân tánh, Chân tánh đó gọi là Ông chủ, Chân tánh đó lúc nào cũng
trong sáng, không có gì chướng ngại nó. “Niết-bàn sanh tử mặc che lồng”, dù cho
có Niết-bàn dù cho có sanh tử, nhưng đối với Chân tánh đó không dính dáng,
không trở ngại gì cả.
Qua bài kệ này, chúng ta thấy rõ
ngài Đại Xả nêu lên hai việc: thứ nhất là nói bốn con rắn ở chung, thứ hai là
nói thân năm uẩn vô chủ. Tuy nhiên trong cái vô chủ đó, nếu chúng ta sáng suốt
thì sẽ tìm ra được cái chân thật. Cái chân thật đó là Chân tánh không bị trở ngại
đối với sanh tử và Niết-bàn. Như vậy từ cuộc sống vô nghĩa, nếu khéo, chúng ta
biến nó thành hết sức có nghĩa. Trên nhân gian này, giỏi như các thầy thuốc, họ
biết được những gì thay đổi trong người nên gìn giữ, bồi dưỡng cho thân khoẻ
mạnh, nhưng rốt cuộc các ông thầy thuốc cũng chết. Cả các thầy thuốc cũng phải
chết thì người nào giữ được không chết? Nếu cả đời chỉ lo cho thân tứ đại, săn
sóc nó nhưng cuối cùng không giữ được nó thì mới thấy công của mình thật là
công dã tràng. Thế nên người thông minh sáng suốt phải thấy được điều đó, khi
lo cho thân này, mình vẫn tìm được cái gì chân thật, cao siêu, như vậy mới khỏi
luống uổng công mình. Đây là điều chủ yếu trong cuộc sống. Vua Trần Thái Tông
có bài kệ “Tứ Sơn Khả Hại”:
Tứ sơn thiên bích vạn thanh
tùng,
Liễu đắc đô lô nhất thiết
không,
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại,
Mạch kỵ đã sấn thượng cao
phong.
Dịch:
Bốn núi ngàn tường muôn bụi
rậm,
Tỉnh ra mới biết thảy đều
không,
Mừng nay có được lừa ba cẳng,
Sấn ngược đường lên đỉnh tuyệt
cùng.
Bốn núi là chỉ cho tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng tụ hội thì mịt mù như
rừng rậm, kín mít như tường vách. Nhưng “tỉnh ra mới biết thảy đều không”, tỉnh
rồi mới thấy tứ đại không thật. Biết tứ đại không thật rồi mới được điều đặc
biệt. Ở đây Ngài diễn tả: “mừng nay có được lừa ba cẳng”, con lừa có mấy chân?
Lừa bốn chân, nhưng Ngài được con lừa ba cẳng. Con lừa ba cẳng đó “sấn ngược
đường lên đỉnh tuyệt cùng” tức là Ngài cỡi nó chạy tuốt lên trên đỉnh tột cùng
của ngọn núi. Đây là lối nói nghịch lý của nhà thiền. Thân này do tứ đại hòa
hợp, vì thấy nó rõ ràng cụ thể, sờ mó được nên chúng ta tưởng nó là thật, giống
như tường vách, bụi rậm. Nhưng khi dùng trí tuệ quán xét đến cùng thì thấy nó
không thật, chỉ là giả tướng duyên hợp thôi. Tuy nhiên trong giả tướng không
thật đó lại còn có cái chân thật vượt ngoài bình thường, chính là lừa ba cẳng
mà Ngài nói ở đây. Và chính cái phi thường đó, khi chúng ta nắm được rồi mới
vượt lên, mới thoát khỏi cái khổ của tứ đại, mới vượt khỏi sự tiêu mòn biến
hoại của tứ đại, vì thế Ngài nói là lên được đỉnh tuyệt cùng.nguoipha
Tóm lại trên đường tu, nếu biết
rõ thân tứ đại không thật, chúng ta mới có thể vượt lên, mới có thể thoát khỏi
nó. Trái lại, nếu nghĩ tứ đại này là thật, cả ngày cặm cụi lo bồi dưỡng cho nó
được đầy đủ, rốt cuộc công lo lắng của mình chỉ là công dã tràng. Đây là điều
mà trong đạo luôn luôn nhắc nhở để chúng ta tránh những việc làm tốn công vô
ích, không đem lại kết quả. Nói thế không có nghĩa chúng ta bỏ nó hay hủy hoại
nó, mà phải nuôi nó trong lẽ bình thường, đừng quá trọng cũng đừng quá khinh,
để mượn nó tìm ra Ông chủ chân thật.
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có bài:
Đốn tỉnh
Đoạn tri không hữu bất tương
soa,
Sanh tử nguyên tùng nhất phái
ba.
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ
nguyệt,
Tân niên hoa phát cố niên hoa.
Tam sanh thúc hốt chân phong
chúc,
Cửu giới tuần hoàn thị nghị
ma.
Hoặc vấn như hà vi cứu kính,
Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha.
Dịch:
Chợt tỉnh
Chớ rằng không có khác nhau
xa,
Sống chết cùng chung mạch nước
mà.
Năm cũ hoa cười, hoa năm mới,
Đêm này nguyệt sáng, nguyệt
đêm qua.
Ba sanh chớp nhoáng lằn phong
chúc,
Chín cõi xoay vần bóng nghị
ma.
Ví hỏi rằng sao là cứu cánh,
Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha.
Trúc Thiên
Chớ rằng không có khác nhau xa,
sống chết cùng chung mạch nước mà. Đừng nghĩ rằng sanh tử cũng như có không
khác nhau. Chính sanh tử, có không cùng chung một loại, cũng như là cùng chung
một mạch nước. Tại sao? Nếu hiểu được lý luân hồi chúng ta sẽ thấy khi tử đó là
nhân của sanh, khi sanh đó là nhân của tử, do có sanh nên phải có tử, do có tử
nên phải có sanh. Sanh và tử thấy như hai việc khác nhau nhưng cả hai cùng một
mạch, cái này làm nhân cho cái kia, vậy thì hai cái không khác mà là cùng
nguồn.
Đây hình ảnh Ngài dụ rất đẹp:
“Năm cũ hoa cười, hoa năm mới, đêm này nguyệt sáng nguyệt đêm qua”, nghĩa là
hoa cười hay hoa nở của năm ngoái tức là đóa hoa nở của ngày hôm qua. Sáng hôm
qua chúng ta thấy những nụ mai chớm nở, sáng ngày nay là năm khác thì chúng ta
thấy các nụ hoa nở tròn, như vậy đóa hoa nở tròn hôm nay là từ nụ hoa chớm nở
của hôm qua. Hôm qua và ngày nay tuy nói năm cũ và năm mới nhưng hôm nay đâu có
rời hôm qua. Cũng như thế, đêm rằm trăng sáng, đến đêm mười sáu trăng cũng
sáng. Trăng đêm rằm và trăng đêm mười sáu như là hai trăng nhưng phải hai
không? Trên ngôn ngữ chúng ta thấy như hai cái khác biệt nhưng trên thực tế hai
cái liên hệ nhau, chớ không tách rời nhau.
“Ba sanh chớp nhoáng lằn phong
chúc.” “Phong” là gió, “chúc” là cây đuốc. Thường chúng ta hay nói đèn treo
trước gió hay cây đèn cầy cầm ra ngoài gió, đèn trước gió thì dễ tắt lắm! “Ba
sanh” là chỉ cho kiếp sống của con người, nhanh như cây đèn cầy để trước gió,
làn gió thổi mạnh qua nó tắt liền, không ai giữ được. Trong khi đang sống, cuộc
sống của chúng ta tưởng như là vững lắm, thật lắm, nhưng một cái sơ sảy, một
luồng gió độc có thể làm hoại nó ngay, không ai lường trước được, nên Ngài diễn
tả nó giống như là ngọn đèn treo trước gió hay là cây đèn cầy ở trước làn gió
mạnh, không có gì bảo đảm.
“Chín cõi xoay vần bóng nghị ma”,
“nghị” là con kiến, “ma” là cối xay. Con kiến bò trên miệng cối, nếu nó cứ bò
vòng theo chiều đó thì chừng nào ra khỏi? Cứ bò vòng vòng, rốt cuộc rồi cũng
trở lại điểm đầu. Nếu nó muốn ra khỏi thì phải bò xuống chớ cứ bò theo chiều
vòng đó mãi thì dù cho bò một ngày, hai ngày cũng chỉ chừng ấy thôi. Cũng thế
nếu chúng ta cứ mê chấp thân này là thật, cảnh này thật, chúng ta phải bị xoay
vần trong lục đạo luân hồi, hay là trong cửu đạo luân hồi giống như con kiến bò
trên miệng chén, cứ đảo qua đảo lại không biết ngày nào ra khỏi. Nay muốn thoát
ra phải làm sao? “Ví hỏi rằng sao là cứu cánh” làm sao được chỗ cứu kính thoát
ra khỏi vòng lẩn quẩn đó? Ngài nói “Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha”, nghĩa là phải trở
về cái trí tuệ lớn lao chưa bao giờ bị kẹt trong vòng phân biệt sanh diệt.
“Ma-ha” là lớn, “Bát-nhã” là trí tuệ, “tát-bà-ha” là chỉ cho tiếng lặp lại
ma-ha-tát-đỏa tức là chỉ cho trí tuệ của Bồ-tát. Trí tuệ rộng lớn của Bồ-tát là
trí tuệ đưa chúng ta đến chỗ cứu kính, thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn trong chín
cõi, chỗ bền bỉ, không dễ bị thổi tắt như ngọn đèn trước gió.
Tóm lại, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ
muốn nhắc nhở: Ở thế gian, người ta mừng khi sống và sợ khi chết, ngày sanh thì
ăn mừng, ngày chết là ngày giỗ, đó là ngày buồn, ngày húy kỵ. Nhưng thật ra,
nếu còn trong dòng luân hồi thì sống chết chỉ là nhân và quả, cả hai hỗ tương
nhau, không tách rời được, không riêng có sống mà không chết, không riêng có
chết mà không sống, cả hai cùng chung một mạch. Lại nữa thân này quá tầm
thường, tạm bợ, ngắn ngủi nên đừng nghĩ rằng mình sẽ sống lâu, phải nhớ rằng
thân này mỏng manh lắm, ngày nào còn sống, chúng ta phải làm những gì hay, tốt
để lợi mình, lợi người, chớ đừng quá nuông chiều giữ gìn nó, rốt cuộc không giữ
được chỉ là uổng công. Nếu không khéo tu chúng ta phải luân hồi trong chín cõi như
con kiến bò trên miệng cối, nhọc nhằn vô ích! Thế nên mỗi người phải sớm thức
tỉnh, làm sao mở mang được trí tuệ cao cả của Phật, Bồ-tát, để thoát khỏi vòng
lẩn quẩn trong chín cõi.nguoip
Thật thế nếu trọn cuộc đời chúng
ta chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, sống vui, cuối cùng rồi chết thì có gì cao thượng
đâu? Trái lại nếu chúng ta tìm được, thấy được cái gì chân thật hơn ngay trong
tứ đại chống đối thù nghịch này, khi ấy chúng ta mới có một hướng vươn lên, như
tôi vừa nói: Được con lừa ba cẳng mới vươn lên đến tận đỉnh núi tuyệt cùng. Vì
lẽ đó, tất cả mọi người, nhất là Phật tử chúng ta, là những người quyết chí
tiến lên, không để dục lạc thế gian lôi cuốn, nhận chìm trong dòng sanh tử.
Trong khi điều hòa tứ đại, chúng ta phải khéo tìm ra cái gì cao thượng hơn,
siêu thoát hơn để không phải khổ đau khi mất thân này. Chiếc thân tạm bợ mong
manh như đèn trước gió, dù cố gắng gìn giữ cũng chỉ là công dã tràng! Chúng ta
là những người đã biết tu tỉnh, biết kính trọng Tam Bảo, biết hướng về con
đường giác ngộ giải thoát thì phải ngay nơi bốn con rắn của mình, tìm thấy được
cái chân thật, vì đó là cửa để tiến đến giác ngộ giải thoát.
Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ,
quí Phật tử đến chùa lễ Phật, thăm quí thầy. Đó là điều rất tốt nhưng chưa đủ,
quí vị còn phải thức tỉnh, để biết ngay trong thân tứ đại còn có cái bất sanh
bất diệt. Được như thế thì sự có mặt của chúng ta ở thế gian này mới không phí
uổng. Mong rằng trong năm mới này, Tam Bảo sẽ gia hộ cho tất cả quí Phật tử,
được nhiều điều an vui, gia đình được hòa thuận, tin yêu, đối với xã hội, mọi
việc đều vẹn đủ, và đối với việc tu hành thì năm nay quí Phật tử sẽ tinh tấn
nhiều hơn năm trước. Đó là lời chúc lành và niềm mong mỏi của chúng tôi.
HT. Thích Thanh Từ thuyết giảng
Tết Kỷ Tỵ 1989
HT. Thích Thanh Từ (Thiền Viện
Thường Chiếu)
Người đăng bài
Hồ Thanh Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét