NĂM TỴ KỂ CHUYỆN RẮN
*************************
Trong mười hai con giáp, rắn được xếp sau rồng; tuy
nhiên cũng có thể nói ngược lại là rắn đứng trước rồng đến mười bậc trong vòng
tròn mười hai địa chi. Và trong khi rồng là một ‘sinh vật’ chúng ta không thể
nhìn thấy, ít nhất vào thời điểm này, và mang đầy màu sắc huyền thoại, thì rắn
lại là một sinh vật có thực và hiện diện xung quanh ta.
Chúc mừng năm mới Quý Tỵ 2013 |
Cũng trong khi rồng là ‘sinh vật’ chỉ tồn tại (nơi
niềm tin) ở một vài xứ sở, chẳng hạn như ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và
Việt Nam, thì rắn tồn tại khắp nơi, trừ những nơi rắn không thể sống được do
những điều kiện nào đó.
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng
không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn; nhưng rắn thì có, với đầy đủ các cung
bậc. Trong tiếng Sanskrit, rắn được gọi là nāga. Nhưng từ nāga trong tiếng
Sanskrit và Pāli không chỉ có nghĩa là rắn, mà cũng có nghĩa là con voi. Mặc dù
trong Phạn ngữ nāga có nghĩa là rắn nói chung, thì lắm lúc khi đề cập đến từ
này người ta liền liên tưởng ngay đến một loại rắn chúa, rắn thần. Có một từ
khác trong tiếng Sanskrit cũng chỉ cho rắn, đó là từ sarpa, nhưng rắn sarpa này
thường ít mang màu sắc huyền bí hơn là rắn nāga. Trong niềm tin dân gian của
người Ấn, trước thời kỳ Phật giáo, nāga là một loại rắn hổ mang bành có bảy
đầu.
Như vậy, từ nāga vốn có nghĩa là rắn. Nhưng rồi khi từ
này được truyền vào một vài quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc… thì thường được
dịch là rồng (long), hơn là rắn (xà), nhất là trong những ngữ cảnh khi nāga
được đề cập đến như là một sinh vật thiêng liêng. Điều này có lẽ do sự ‘tiếp
biến’ văn hóa, nơi tín ngưỡng rồng phổ biến, và khi rồng được xem là một ‘sinh
vật’ thiêng liêng và hình ảnh của nó cũng được dùng trang trí ở những nơi chốn
trang nghiêm.
Giống như rồng (龍) là sinh vật huyền bí (một trong tứ linh) của Trung
Quốc, rắn (nāga) được xem là một sinh vật linh thiêng trong đời sống văn hóa và
tôn giáo Ấn Độ. Nāga được xếp vào một trong ‘bát bộ’, là á thần, bởi vì được
cho là có những ‘thần lực’ nhất định. Bát bộ bao gồm: Deva (thiên), Nāga (rồng,
rắn), Yaksa (thần dạ-xoa), Gandharva (càn-thát-bà: nhạc thần), Asura (thần
a-tu-la), Garuda (ca-lâu-na: chim đại bàng), Kinnara (khẩn-na-la: nhạc thần của
Đế Thích), Mahoraga (Ma-hầu-la-gia: thần đầu rắn mình người).
Nơi niềm tin của người Ấn, nguồn gốc của rắn được cho
là có liên hệ với thần linh. Theo Varāha Purāṇa, một trong các thánh thư
của Ấn giáo, con trai của Phạm vương (Brahma) là Kashyapa có bốn người vợ.
Người vợ đầu sinh ra các Deva (thiên), người vợ thứ hai sinh ra Garuda (chim),
người vợ thứ ba sinh ra Nāga (rắn), và người vợ thứ tư sinh ra Daitya (quỷ). Từ
câu chuyện được đề cập ở trong cuốn sách này, rắn như vậy có những liên hệ
‘huyết thống’ với thần linh. Thêm nữa, theo vũ trụ luận của người Ấn, núi Meru
là ngọn núi trung tâm của vũ trụ, và là nơi cư trú của Phạm thiên và những thần
linh khác, và rắn (nāga) là sinh vật bảo vệ ngọn núi này bằng cách cuốn mình
quanh ngọn núi.
Không biết có phải từ nguyên nhân này hay không mà rắn
được tôn kính và thờ phụng như một vị thần ở trong Ấn giáo. Ở trong nhiều ngôi
đền của Ấn giáo, người ta đã thờ phượng rắn như là một vị thần thực thụ. Và tại
nhiều ngôi làng ở Ấn, người ta tôn trí trong nhà những tranh tượng rắn, và thậm
chí dâng cúng trứng và sữa cho những tranh tượng rắn này. Người Ấn giáo cũng có
lễ hội về rắn thần, tưởng niệm ngày sinh của rắn thần và ngày này được gọi là Nāga
Panchami. Rắn cũng trở thành vật gần gũi và thân cận với các vị thần của Ấn
giáo. Ví dụ như thần Shiva thường quấn một con rắn ở nơi cổ; còn sàng tọa của
thần Krishna lại là một con rắn.
Rắn trong Ấn giáo cũng biểu tượng cho sự tự do, bởi vì
nó là một sinh vật được cho là không thể thuần hóa. Nhưng điều này chưa hẳn đã
đúng, bởi vì nhiều nơi trên nước Ấn, các đạo sĩ và ngay cả những thường dân, đã
‘thuần hóa’ được rắn. Họ có thể sai bảo rắn huýt gió hay điều khiển rắn múa
theo điệu kèn hoặc sáo…. Không rõ là người ta có sử dụng ‘phép thuật’ hay nhưng
bí quyết gì để bắt rắn phải phục tùng theo ý muốn của họ như vậy hay không,
nhưng rõ ràng là rắn có thể bị thuần phục bởi con người. Người Ấn giáo cũng tin
rằng rắn (thần) có thể đem đến tài sản, sức khỏe, hạnh phúc cho con người, và
sẽ giúp con người khi họ gặp phải những khó khăn trong đời sống. Nhưng dù rắn
thần được xem là sinh vật thiêng liêng, thì sinh vật này vẫn ở dưới sự điều
khiển của hai vị thần Shiva và Krishna .
Nơi cư trú của nāga thường được cho là gắn liền với
nước, chẳng hạn như dưới đáy sâu của đại dương, sông, hồ… Vì đời sống gắn liền
nước, nên nāga cũng biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Và cũng vì là sinh vật
gắn liền với nước, nên theo huyền thoại, nāga có thể tạo nên mưa gió.
Tuy nhiên rắn không phải luôn được coi là một sinh vật
hiền thiện ở trong Ấn giáo, mà đôi khi cũng bị coi là một sinh vật nguy hiểm.
Trong Mahabharata, một thánh điển quan trọng của Ấn giáo, rắn được miêu
tả như là một sinh vật hung ác và có khuynh hướng làm hại kẻ khác. Rắn (nāga)
cũng có kẻ thù không đội trời chung của nó, đó chính là chim Garuda. Cả Nāga và
Garuda có cùng cha là Kashyapa, nhưng do vì sự bội bạc của Kadru, mẹ của Nāga,
mà hai sinh vật này trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau.
Trong Phật giáo, rắn (nāga) xuất hiện khá thường xuyên
trong kinh điển. Chúng ta có lẽ đều biết đến câu chuyện rắn thần Mucalinda
(Muchalinda nāga) đã che mưa bão cho Đức Phật khi Ngài thiền định bên một gốc
cây trong những ngày mưa gió. Chuyện kể rằng, vào tuần thứ sáu sau khi giác
ngộ, khi Đức Phật đang thiền định bên gốc cây Mucalinda thì mưa to ập xuống và
kéo dài trong bảy ngày liền. Ngay khi ấy, một con rắn chúa từ dưới đất bò lên
đã che mưa gió cho Ngài bằng cách cuốn bảy vòng quanh mình Ngài và vươn đầu
phồng to ra để che ở phía trên, với suy nghĩ: không để Đức Thế Tôn bị mưa lạnh.
(Xem thêm Udana 2.1, kinh Mucalinda). Từ câu chuyện này, những người tạc
tượng về sau đã tạc hình Đức Phật ở tư thế ngồi thiền, có một con rắn bảy đầu
che ở bên trên. Rắn ở đây như là một sinh vật khôn ngoan, biết hộ trì những bậc
thánh, và cũng có thể được cảm hóa.
Trong Buddhacarita saṃgraha sūtra, cũng có kể
lại câu chuyện tương tự với câu chuyện trong Udana, nhưng ở đây có thêm
một số tình tiết: sau khi Đức Phật giác ngộ bên cội bồ-đề ở Bodhgaya, có một
con rắn (nāga) chúa màu đen bò đến đảnh lễ Đức Phật và sau đó thỉnh Ngài viếng
thăm nơi cư trú của mình. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu và trú tại nơi của
nāga suốt bảy ngày liền. Sau đó Đức Phật quy y cho rắn chúa, truyền cho nó Tam
quy và Ngũ giới. Và rắn chúa này là sinh vật, không thuộc loài người, đầu tiên
quy y Tam bảo. Sau đó một rắn chúa khác có tên là Mucilinda viếng thăm Đức Phật
và đã che mưa bão cho Ngài trong suốt bảy ngày. Và sau bảy ngày thiền định của
Đức Phật và khi mưa gió chấm dứt, rắn chúa này thỉnh mời Ngài đến trú xứ của
mình và sau đó quy y Tam bảo.
Nhưng trong kinh điển Pāli, qua những ẩn dụ và những
trường hợp cụ thể, rắn cũng cho thấy là một sinh vật có thể gây hại, không hoàn
toàn thân thiện và huyền bí. Hẳn nhiên là với những loài rắn độc, nếu không
thêm thắt những màu sắc huyền bí, chúng có thể tấn công và gây hại cho ta khi
ta vô tình dẫm đạp, hay có hành động tấn công chúng. Kinh Tăng chi có đề
cập đến trường hợp một Tỳ-kheo đã bị rắn cắn chết (Tăng chi bộ IV: 67). Và khi
biết được vấn đề này, Đức Phật nói rằng nếu vị Tỳ-kheo ấy trải lòng từ đến loài
rắn, thì đã không bị con rắn ấy cắn chết. Và lòng từ, theo bài kinh này, là
phương cách ngăn chặn các loài rắn, cũng như những ác thú khác, làm hại.
Trong kinh sách, rắn cũng được đem ra làm ẩn dụ cho
việc đọc, hiểu và thực hành kinh điển. Một người học giáo pháp với mục đích
khoái khẩu biện luận, để chỉ trích người khác, không học pháp với mục đích tu
tập cho việc giác ngộ giải thoát, thì người này được coi là bắt rắn ở lưng hay
ở đuôi, có thể bị con rắn đó quay lại cắn. Tức muốn nói rằng, một người học
pháp với mục đích như vậy thì chỉ tạo thêm khổ đau mà không được ích lợi gì.
Còn người học pháp không vì mục đích khoái khẩu biện luận hay chỉ trích người
khác, mà học pháp với mục đích áp dụng tu tập để đạt đến giác ngộ giải thoát,
thì người này được cho là đang bắt rắn nơi cổ, không bị rắn gây hại (Xem Trung
bộ, kinh Ví dụ con rắn, số 22).
Trong Phật giáo, rắn (nāga) đôi khi được mô tả như là
một sinh vật có tâm hộ trì kinh sách. Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa,
kinh Bát-nhã (Prajñāpāramitā) mà Đức Phật thuyết trên núi Linh Thứu đã
được nāga (thường được dịch là rồng, hơn là rắn) lưu giữ ở dưới Long cung
(nāgarāja). Và về sau Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) đã xuống Long cung để mang
những kinh sách này lên cho loài người.
Ở Ấn Độ, một vài nơi chốn linh thiêng đôi khi được cho
là nơi có nāga cư ngụ. Trong Đại đường tây vực ký, khi nói về Đại học
Nalanda, ngài Huyền Trang cho rằng tại khu vực Đại học Nalanda tọa lạc, trước
đó có một hồ nước và có một con rồng/rắn (nāga) chúa tên là Nalanda sống, nên
ngôi tự viện được xây dựng ở đây đã được đặt tên theo tên con rồng/rắn này. Và
về sau, ngôi tự viện này đã trở thành một trung tâm học thuật nổi tiếng của
Phật giáo đó là Đại học Nalanda.
Xa hơn nữa, nāga cũng được phân chia thành năm ‘đẳng
cấp’ tương ứng với năm đẳng cấp: Brahmin (tu sĩ), Kshatriya (chiến sĩ), Vaishya
(thương nhân), Shudra (lao động chân tay), và Chandali (thành phần cùng đinh).
Tuy nhiên, qua các tài liệu mà tôi đọc được, đã không thấy đề cập đến những
loại rắn nào tương ứng với đẳng cấp Bà-la-môn, và những loài nào tương ứng với
đẳng cấp Thủ-đà-la… Trong Tăng chi bộ (IV: 67) ta thấy có đề cập đến bốn
loại rắn chúa, đó là: Virupakkha, Erapatha, Chabyaputta, và Gotamaka. Và trong Trường
bộ, kinh Ðại hội (Maha-samaya Sutta, kinh số 20), Virupakkha được
cho là ‘Chúa tể loài Nāga’, tức là vua của các loài rắn.
Như
vậy, từ những gì được trình bày ở trên, ta thấy hình ảnh của rắn được con người
thể hiện khá sinh động. Rắn vừa là một sinh vật ít nhiều gây cho con người sự
sợ hãi bởi nòng độc của nó, nhưng cũng vừa là một sinh vật gắn liền với những
huyền thoại, và lắm khi được gán cho là sinh vật biết tu luyện. Rắn đôi khi còn
được phong ‘thần’ và trở thành rắn thần, và mỗi khi trở thành ‘thần’ thì hẳn
nhiên sẽ trở thành đối tượng thờ bái của một số người.
Nghiệp Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét