14 tháng 9, 2012

Phóng sự ngày 1: Hành trình vượt Trường Sơn về quê Bác

Phóng sự ngày 1 tiếp theo:
TP.HỒ CHÍ MINH - BÌNH DƯƠNG - BÌNH PHƯỚC    ĐẮK NÔNG - THÁC DRAY SÁP - ĐẮK LẮK      BUÔN MA THUỘT - BẢN ĐÔN
********************
     Tạm biệt trạm dừng nghỉ Đại Nam ở Bù Đăng, Bình Phước chúng tôi tiếp tục lên đường. Qua khỏi xã Phú Sơn chúng tôi đến xã Đăk Ru, huyện Đăk R'Lấp, tỉnh Đắk Nông. 
Bảng chào Đắk Nông như tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi
     Như vậy là chúng tôi đã chính thức đặt chân lên cao nguyên Mơ Nông, một trong những tỉnh Tây Nguyên với biết bao nhiêu điều kỳ thú. Chúng ta hãy tìm hiểu đôi nét về tỉnh Đắk Nông nhé.

GIỚI THIỆU VỀ TỈNH ĐĂK NÔNG
I.VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
     Đắk Nông là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, thuộc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn; được xác định trong khoảng tọa độ địa lý: 11045’ đến 12050’ vĩ độ Bắc, 107013’đến 108010’ kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia.
     Đắk Nông có diện tích tự nhiên có 6.514,38 km2, có 08 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã. Với dân số 510.570 người, cùng với 33 dân tộc anh em đang làm ăn, sinh sống. Trung tâm tỉnh lỵ là Thị xã Gia Nghĩa.
Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Nông
     Nằm ở cửa ngõ Tây Nguyên, Đắk Nông có Quốc lộ 14 nối thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền đông Nam bộ với các tỉnh Tây nguyên, cách Thành phố Hồ Chí Minh 230 km về phía Bắc và cách Thành phố Ban Mê Thuột (Đắk Lăk) 120 km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với Lâm Đồng, Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách Thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) 120 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 160 km về phía Đông.
     Đắk Nông có 130 km đường biên giới tiếp giáp tỉnh Mondulkiri, có 02 cửa khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom Penh, Siem Reap, v.v. của nước bạn Campuchia.
     Trong tương lai, khi được triển khai thì các tuyến đường sắt Đắk Nông-Chơn Thành-Di An ra cảng Thị Vải, Đăk Nông – Tân Rai ra cảng Kê Gà sẽ mở ra cơ hội lớn cho Đắk Nông đẩy mạnh khai thác các thế mạnh của tỉnh.
Bản đồ du lịch tỉnh Đắk Nông
     Vị trí địa lý như trên sẽ tạo điều kiện cho Đắk Nông có thể mở rộng giao lưu với các tỉnh trong khu vực Tây nguyên; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn Campuchia, là nguồn động lực để Đăk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong tương lai sẽ trở thành trung tâm phát triển kinh tế năng động của khu vực Tây Nguyên.

II.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
     Đắk Nông là vùng đất cổ, nằm trên cao nguyên M’Nông, phía Tây Nam vùng Tây nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn, có độ cao trung bình từ 600 - 700m, có nơi lên đến 1.970m so với mực n­ước biển. Là nơi sinh sống lâu đời của các dân tộc bản địa như M’Nông, Mạ, Ê đê …, theo chế độ cộng đồng, thị tộc, bộ lạc, trải dài trên một địa bàn rộng lớn.
     Do vị trí địa lý, vùng đất Đắk Nông nói riêng, vùng đất Tây Nguyên nói chung, nằm ở ngã 3 của các quốc gia Đông Dương, luôn chịu sự tranh chấp của nhiều thế lực bên ngoài với các tộc người bản địa hoặc giữa các thế lực xâm lược với nhau. Vì vậy, vùng đất này luôn chịu sự xáo trộn về ranh giới địa lý hành chính.
     Từ  năm 1893, triều đình nhà Nguyễn buộc phải chấp nhận để Pháp toàn quyền cai trị vùng cao nguyên Trung phần, Đăk Nông trở thành vùng đất thuộc quyền cai trị trực tiếp của thực dân Pháp.
     Không chịu khuất phục dưới ách thống trị của thực dân, các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Đắk Nông nói riêng đã vùng lên, chống thực dân xâm lược mà điển hình là các cuộc khởi nghĩa của N’Trang Gưh (1845-1914, tù trưởng buôn Cuah Kplang), từ năm 1887 đến năm 1914, ông từng lãnh đạo nghĩa quân bao vây tiêu diệt đồn Buôn Tur, buôn Riăng, buôn Dur, buôn Tinh, đồn Phơty…; cuộc khởi nghĩa của N’Trang Lơng (1870 - 1935, là người dân tộc M’Nông), Ông đã đứng lên lãnh đạo các dân tộc M’ Nông, Stiêng, Mạ… vũ trang chống Pháp từ cuối năm 1911, cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp vùng cao nguyên M'Nông và được nhiều tù trưởng tài giỏi khác như R'Dinh, R'Ong (tù trưởng của các buôn Bu Jeng Chet, Bu Mera, Bu Nơr, Bu Nốp... thuộc tổng DakRtik, nay là tỉnh Đắk Nông) tham gia. Giữa tháng 5 năm 1935, quân Pháp tập trung tiến công đại bản doanh của nghĩa quân. Tù trưởng N’Trang Lơng bị trọng thương và tử thương đêm 23 tháng 5 năm 1935.
     Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định khu vực Tây Nguyên, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập hệ thống chính quyền tay sai thực dân trên địa bàn Đăk Nông để kiểm soát dân chúng, tập trung ở Đăk Mil, Đăk Song. Năm 1940, bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột, chúng còn cho xây dựng Ngục Đăk Mil (nay thuộc huyện Đăk Mil, Đăk Nông), nhằm đày ải và tra tấn các chiến sĩ cách mạng của ta. Ngục Đăk Mil trở thành một cơ sở cách mạng trên địa bàn huyện và đã chứng kiến nhiều lần vượt ngục dũng cảm của những người Cộng sản yêu nước.
     Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) Đắk Nông là vùng địch tạm chiếm đóng. Đồng bào dân tộc M’Nông, Mạ… với truyền thống kiên cường, anh dũng trong đấu tranh chống ngoại xâm đã được sớm giác ngộ và đi theo cách mạng. Năm 1950, tỉnh Đắk Lắk cử Đội công tác 124 về tiến hành xây dựng cơ sở ở xung quanh núi Nâm Nung.
     Những năm 1954 - 1959, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiều thanh niên M’Nông, Mạ… đã giác ngộ cách mạng, thoát ly và được đưa vào vùng hậu cứ đào tạo để sau này phục vụ địa phương. Ban Cán sự Đảng kết hợp với đội công tác tuyên truyền, vận động thành lập được trung đội du kích người dân tộc M’Nông để chiến đấu chống Pháp. Đây là những lực lượng tiền thân của lực lượng quân sự tỉnh sau này.
     Từ năm 1959, khu vực Nâm Nung trở thành khu căn cứ của lực lượng cách mạng. Tại căn cứ này, chính quyền cách mạng đã xây dựng được 3 trung đội du kích, gồm 150 thanh niên M’Nông, đã huy động được hàng chục ngàn ngày công phục vụ chiến đấu, vận động nhân dân đóng góp hàng ngàn tấn lương thực, hàng trăm tấn thực phẩm cho cách mạng và xây dựng hàng ngàn hầm chông, cạm bẫy, rào hàng chục cây số để chiến đấu bảo vệ hậu cứ, bảo vệ an toàn cơ quan lãnh đạo tỉnh, huyện và các trạm hành lang.
     Tháng 1/1959, chính quyền Sài Gòn cắt một phần phía Tây của tỉnh Đắk Lắk, một phần quận Kiến Hòa của Thủ Dầu Một để thành lập tỉnh Quảng Đức. Địa giới hành chính tỉnh Quảng Đức, về cơ bản giống như địa giới tỉnh Đắk Nông ngày nay, được chia làm 3 quận: Quận Đức Lập, quận Kiến Đức, quận Khiêm Đức và khu hành chính Đức Xuyên. Để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chiến lược và điều kiện chiến tranh, tháng 12 năm 1960, Trung ương đã quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức dựa trên sự phân chia địa giới của địch (lấy mật danh là B4), thuộc Liên tỉnh IV, do Liên khu V trực tiếp chỉ đạo; giữa năm 1961, tỉnh Quảng Đức do khu VI trực tiếp chỉ đạo.
     Đầu năm 1962, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của Cách mạng, Trung ương quyết định giải thể tỉnh Quảng Đức, chuyển Đức Lập, Đức Xuyên nhập về tỉnh Đắk Lắk, Kiến Đức nhập về tỉnh Phước Long, Khiêm Đức nhập về tỉnh Lâm Đồng.
     Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 5/1975, thực hiện chủ trương của Trung ương, tỉnh Quảng Đức được thành lập lại, Chính quyền Cách mạng đã nhanh chóng chỉ đạo các cấp, các ngành ổn định tổ chức, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước phát triển kinh tế xã hội. Tháng 11/1975, tỉnh Quảng Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk.
     Từ ngày 01/01/2004, tỉnh Đắk Nông được tái lập theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk. Hiện nay, tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên là 6.514,38 km2, có 08 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã gồm: Cư Jut, Đăk Mil, Krông Nô, Đăk Song, Đăk Rlâp, Đăk Glong, Tuy Đức và thị xã Gia Nghĩa.

III.ĐỊA HÌNH
     Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, độ cao trung bình khoảng 600 m đến 700m so với mặt nước biển, có nơi lên đến 1.982m (Tà Đùng).
     Nhìn tổng thể, địa hình Đắk Nông như hai mái của một ngôi nhà mà đường nóc là dãy núi Nam Nung, chạy dài từ Đông sang Tây, có độ cao trung bình khoảng 800m, có nơi cao đến hơn 1.500m. Địa hình có hướng thấp dần từ Đông sang Tây. Các huyện Đăk Song, Đăk Mil, Cư Jut, Krông Nô thuộc lưu vực sông Krông Nô, sông Srêpốk nên thấp dần từ Nam xuống Bắc. Các huyện Tuy Đức, Đăk Rlâp, Đăk Glong và thị xã Gia Nghĩa thuộc thượng nguồn lưu vực sông Đồng Nai nên thấp dần từ Bắc xuống Nam.
     Vì vậy, Đắk Nông có địa hình đa dạng và phong phú, bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ, hiểm trở với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải, lư­ợn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng. Địa hình thung lũng thấp, có độ dốc từ 0-30 chủ yếu phân bố dọc sông Krông Nô, Sêrêpôk, thuộc các huyện Cư Jút, Krông Nô. Địa hình cao nguyên đất đỏ bazan chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình 600 - 800 m, độ dốc khoảng 5-100. Địa hình chia  cắt mạnh và có độ dốc lớn > 150 phân bố chủ yếu trên địa bàn các huyện Đăk Glong, Đắk R'Lấp.

IV.KHÍ HẬU THỜI TIẾT
     Đắk Nông là khu vực chuyển tiếp giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây Nguyên và Đông Nam bộ, chế độ khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng có sự nâng lên của địa hình nên có đặc trưng của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến hết tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến hết tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
     Nhiệt độ trung bình năm 22-230C, nhiệt độ cao nhất 350C, tháng nóng nhất là tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất 140C, tháng lạnh nhất vào tháng 12. Tổng số giờ nắng trong năm trung bình 2000-2300 giờ. Rất phù hợp với phát triển các cây trồng nhiệt đới lâu năm.
     Lượng mưa trung bình năm là 2.513 mm, lượng mưa cao nhất là 3.000mm. Tháng mưa nhiều nhất vào tháng 8, 9; mưa ít nhất vào tháng 1, 2. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Độ bốc hơi mùa khô 14,6-15,7 mm/ngày, mùa mưa 1,5-1,7 mm/ngày.
     Hướng gió thịnh hành mùa mưa là Tây Nam, hướng gió thịnh hành mùa khô là Đông Bắc, tốc độ gió bình quân 2,4 -5,4 m/s , hầu như không có bão nên không gây ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội.
     Tuy nhiên cũng như các vùng khác của Tây Nguyên, điều bất lợi cơ bản về khí hậu là sự mất cân đối về lượng mưa trong năm và sự biến động lớn về biên độ nhiệt ngày đêm và theo mùa, nên yếu tố quyết định đến sản xuất và sinh hoạt là việc cấp nước, giữ nước và việc bố trí mùa vụ cây trồng.

V.THỦY VĂN
     Đắk Nông có mạng lưới sông suối, hồ, đập phân bố tương đối đều khắp. Đây là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng các công trình thủy điện và phục vụ nhu cầu dân sinh.
Các sông chính chảy qua địa phận tỉnh gồm:
     Sông Sêrêpôk:  do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu với nhau. Khi chảy qua địa phận huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, do kiến tạo địa chất phức tạp, lòng sông trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ, vừa có cảnh quan thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện mang lại giá trị kinh tế. Đó là thác Trinh Nữ, Dray H'Linh, Gia Long, ĐraySap. Các suối Đắk Gang, Đắk Nir, Dray H'Linh, Ea Tuor, Đắk Ken, Đắk Klou, Đắk Sor cũng đều là thượng nguồn của sông Sêrêpôk.
     Sông Krông Nô: Bắt nguồn từ dãy núi cao trên 2.000 m phía Đông Nam tỉnh Đắk Lắc, chảy qua huyện Krông Nô. Sông Krông Nô có ý nghĩa rất quan trọng đối với sản xuất và đời sống dân cư trong tỉnh. Còn nhiều suối lớn nhỏ khác suối Đắk Mâm, Đắk Rô, Đắk Rí, Đắk Nang là thượng nguồn của sông Krông Nô.
     Hệ thống sông suối thượng nguồn sông Đồng Nai: Sông Đồng Nai dòng chảy chính không chảy qua địa phận Đắk Nông nhưng có nhiều sông suối thượng nguồn. Đáng kể nhất là: Suối Đắk Rung bắt nguồn từ khu vực Thuận Hạnh, Đắk Nông với chiều dài 90 km.  
     Suối Đắk Nông có lưu lượng trung bình 12,44m3/s. Dòng chảy trung bình 47,9 m3/skm2. Suối Đắk Buk So là ranh giới giữa huyện Đắk Song và Đắk R'Lấp. Suối Đắk R'Lấp có diện tích lưu vực 55,2 km2, là hệ thống suối đầu nguồn của thủy điện Thác Mơ. Suối Đắk R'Tih chảy về sông Đồng Nai, đầu nguồn của thủy điện  Đắk R'Tih và thủy điện Trị An.
     Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có nhiều hồ, đập lớn vừa có tác dụng giữ nước cho sản xuất nông, công nghiệp, thủy điện, vừa là tiềm năng để phát triển du lịch như Hồ Tây, Ea Snô, Ea T'Linh, Đắk Rông, Đak Đier, Đăk R’tih, Đồng Nai 3, 4.v.v.
     Chế độ lũ: Chịu sự chi phối mạnh của sông Krông Nô. Tại Đức Xuyên lũ lớn thường xảy ra vào tháng 9, 10. Hàng năm dòng sông này thường gây ngập lũ ở một số vùng thuộc các xã phía nam huyện Krông Nô. Lũ trên sông Sêrêpôk là tổ hợp lũ của 2 sông Krông Nô và Krông Na, lũ xuất hiện vào tháng 9 và 10.

VI.ĐẤT ĐAI
Đăk Nông có tổng diện tích đất tự nhiên là 651.561 ha.
     Về thổ nhưỡng: Đất đai Đăk Nông khá phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên nền đá macma axit và đá cát chiếm khoảng 40% diện tích và được phân bổ đều toàn tỉnh. Đất đỏ bazan trên nền đá bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích, có tầng dày bình quân 120 cm, phân bổ chủ yếu ở Đăk Mil, Đăk Song. Còn lại là đất đen bồi tụ trên nền đá bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dòng sông, suối.
     Về sử dụng:  Đất nông nghiệp có diện tích là 306.749 ha, chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó đất trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm phần lớn diện tích. Đất cây hàng năm chủ yếu là đất trồng lúa, ngô và cây công nghiệp ngắn ngày. Đất lâm nghiệp có rừng diện tích là 279.510ha, tỉ lệ che phủ rừng toàn tỉnh là 42,9%.  Đất phi nông nghiệp có diện tích 42.307 ha. Đất chưa sử dụng còn 21.327 ha, trong đó đất sông suối và núi đá không có cây rừng là 17.994 ha.

VII.DÂN SỐ
     Dân số toàn tỉnh là 510.570 người, trong đó dân số đô thị chiếm 14,9%, dân số nông thôn 85,1%. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,57%. Mật độ dân số trung bình là 78,39 người/km2.
     Dân cư phân bố không đều trên địa bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ yếu tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ. Có những vùng dân cư thưa thớt như một số xã của huyện Đắk Glong, Tuy Đức.
     Dân số Đăk Nông là dân số trẻ, trong độ tuổi còn đi học khoảng 165.000 người, chiếm 32%; trong độ tuổi lao động có 325.000 người, chiếm 63%; độ tuổi trên 60 chỉ có hơn 20.000 người.

VII.DÂN TỘC
     Đắk Nông là tỉnh có cộng đồng dân cư gồm 40 dân tộc cùng sinh sống. Cộng đồng dân cư Đăk Nông được hình thành từ: Đồng bào các dân tộc tại chỗ như M’Nông, Mạ, Ê đê, Khmer…; đồng bào Kinh sinh sống lâu đời trên Tây nguyên và đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc mới di cư vào lập nghiệp như Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao, H’Mông .v.v.
     Cơ cấu dân tộc đa dạng, chủ yếu là dân tộc Kinh, M'Nông, Nùng, H’Mông v.v. Dân tộc Kinh chiếm tỉ lệ 67,9%, M'Nông chiếm 8,2%, Nùng chiếm 5,6%, H’Mông chiếm 4,5%, các dân tộc khác chiếm tỉ lệ nhỏ; cá biệt có những dân tộc chỉ có một người sinh sống ở Đắk Nông như Cơ Tu, Tà Ôi, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt.

VIII.TÔN GIÁO – TÍN NGƯỠNG
     Đắk Nông là vùng đất sinh sống từ hàng ngàn đời của đồng bào các dân tộc tại chỗ, đồng thời cũng là vùng đất quần tụ của cư dân từ nhiều vùng miền về sinh cơ, lập nghiệp nên đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng cũng vô cùng phong phú. 
     Đến nay, Đắk Nông có hơn 170.000 người là tín đồ của hơn 10 tôn giáo khác nhau, nhưng chủ yếu là Công giáo (hơn 100 ngàn, chiếm gần 20% dân số), Tin lành (hơn 50 ngàn, chiếm tỷ lệ 10% dân số) và Phật giáo (hơn 20 ngàn, tỷ lệ 4% dân số).
     Ngoài ra, đồng bào các dân tộc Đăk Nông còn có rất nhiều tín ngưỡng để tôn thờ, đặc biệt là đồng bào các dân tộc tại chỗ thờ cúng Yàng (Trời), thần Núi, thần Sông v.v. và rất nhiều lễ hội như: Lễ hội Đâm trâu (ăn trâu). Lễ mừng nhà mới, Lễ mừng mùa, Lễ bỏ mả .v.v. phong phú và đặc sắc.

IX.TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
*Tài nguyên đất
     Về thổ nhưỡng: Đất đai Đắk Nông khá phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên nền đá macma axit và đá cát chiếm khoảng 40% trong tổng diện tích 651.561 ha và được phân bổ đều toàn tỉnh. Đất đỏ bazan trên nền đá bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích, có tầng dày bình quân 120 cm, phân bổ chủ yếu ở Đăk Mil, Đăk Song. Còn lại là đất đen bồi tụ trên nền đá bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dòng sông, suối.
     Về sử dụng:  Đất nông nghiệp có diện tích là 306.749 ha, chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên. Đất lâm nghiệp có rừng diện tích là 279.510 ha, tỉ lệ che phủ rừng toàn tỉnh là 42,9%.  Đất phi nông nghiệp có diện tích 42.307 ha. Đất chưa sử dụng còn 21.327 ha, trong đó đất sông suối và núi đá không có cây rừng là 17.994 ha.
     Với tài nguyên đất đai nêu trên, Đăk Nông rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, cao su, chè, tiêu, điều trên nền đất xám, đất đỏ bazan; đồng thời phát triển một diện tích lớn cây hàng năm như lúa, ngô và các loại cây công nghiệp ngắn ngày khác trên đất đen bồi tụ, đất Gley và đất phù sa ven sông suối.
*Tài nguyên rừng
     Diện tích đất lâm nghiệp có rừng của Đắk Nông là 279.510 ha chiếm 42,9% diện tích đất tự nhiên. Trong đó rừng sản xuất là 212.752 ha, được phân bố đều khắp ở các huyện. Rừng phòng hộ là 37.499, chủ yếu tập trung ở các huyện Đắk R’lấp, Đắk Song, Đắk G’long, Đắk Min. Rừng đặc dụng là 29.257 ha, chủ yếu tập trung ở huyện Đắk G’long và K’Rông Nô, đây là rừng trong hai khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung, khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng với những khu rừng nguyên sinh có nhiều cảnh quan, thác nước đẹp tạo nên quần thể du lịch hấp dẫn.
     Rừng tự nhiên ở Đắk Nông nằm trong vùng hội tụ của hai luồng thực vật với hai loại hình rừng: Rừng thường xanh phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng mưa lớn, độ ẩm cao, tầng đất sâu như Krông Nô, Đăk Song, Đăk Glong, Tuy Đức. Rừng khộp phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng mưa thấp, điều kiện khắc nghiệt, các vùng lập địa xấu như bắc Đăk Mil, Cư Jut.
     Rừng Đắk Nông có nhiều hệ động vật và thực vật phong phú và đa dạng, những khu rừng nguyên sinh có nhiều loại gỗ quí và cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị khoa học. Trong rừng còn nhiều động vật quí hiếm như voi, gấu, hổ v.v. được ghi trong sách đỏ của nước ta và sách đỏ thế giới; có nhiều loại dược liệu quí là nguồn nguyên liệu dồi dào để chế thuốc chữa bệnh trong y học dân tộc.
*Tài nguyên nước
     Lượng mưa trung bình hàng năm 2.513 mm, lượng mưa cao nhất 3.000mm. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Vì vậy, nguồn nước mặt do nguồn nước mưa cung cấp, tương đối dồi dào, thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt dân cư trên địa bàn toàn tỉnh.
     Do chịu ảnh hưởng của khí hậu cao nguyên, lại nằm ở phía Tây, cuối dãy Trường Sơn nên vào mùa khô thường mưa ít, nắng nóng kéo dài làm khô hạn, nhiều lúc thiếu nước gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của dân cư nên tỉnh đã chủ động xây dựng nhiều hồ đập chứa nước mặt phục vụ sinh hoạt và sản xuất nông, công nghiệp, thủy điện, vừa là tiềm năng để phát triển du lịch như Hồ Tây, EaSnô, Ea T'Linh, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih, Đồng Nai 3,4.v.v.
     Nguồn nước ngầm: phân bố ở hầu khắp cao nguyên bazan và các địa bàn trong tỉnh, có trữ lượng lớn ở độ sâu 40-90m. Đây là nguồn cung cấp nước bổ sung cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô, được sử dụng phổ biến cho sinh hoạt, làm kinh tế vườn, kinh tế trang trại.
     Hệ thống sông suối của Đắk Nông dày đặc và phân bố tương đối đều khắp. Các sông chính chảy qua địa phận tỉnh gồm hai hệ thống sống chính là: Sông Sêrêpôk do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu, do kiến tạo địa chất phức tạp, lòng sông trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ, vừa có cảnh quan thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện như thác Trinh Nữ, Dray H'Linh, Gia Long, Đray Sap. Thượng nguồn sông Đồng Nai gồm nhiều sông suối Đăk Nông là thượng nguồn như  Suối Đắk Rung, Đắk Nông, Đắk Bukso, ĐắkR'Lấp, Đắk R'Tih …
     Sông suối trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có tiềm năng thủy điện dồi dào. Hệ thống suối đầu nguồn của các sông Đồng Nai, Krông Nô, Sêrêpôk có thể xây dựng nhiều công trình thủy điện lớn với tổng công suất khoảng 1500 MW như thuỷ điện Buôn Kuôp 280 MW, Đức Xuyên 92 MW, Buôn TuaSrah 85 MW, Đắk Tih 140 MW, Đồng Nai 3-180 MW, Đồng Nai 4 – 340MW, Đồng Nai 6&6A v.v. đang từng bước được đầu tư xây dựng.
*Tài nguyên khoáng sản
     Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 178 mỏ khoáng sản với 16 loại khoáng sản chủ yếu: bauxit, wolfram, antimoal, bazan bọt; bazan cột, bazan khối, cát xây dựng, đá bazan, đá granit, sét gạch ngói, than bùn, opal, thiếc sa khoáng, kaolin, nước khoáng thiên nhiên, saphir.
     Bô xít:  Là nguồn khoáng sản có trữ lượng lớn, phân bố ở thị xã Gia Nghĩa, các huyện Đắk GLong, Đắk R'Lấp, Đắk Song, Tuy Đức, trữ lượng dự đoán 5,4 tỉ tấn, trữ lượng thăm dò 2,6 tỉ tấn, hàm lượng Al2O3 từ 35-40%.
     Khoáng sản quí hiếm: Có vàng, đá quí ngọc bích, saphir, opal…phân bổ rải rác ở Đăk Song, Đăk Glong, Đăk Mil. Ngoài ra còn có Wolfram, thiếc, antimoal trên địa bàn thị xã Gia Nghĩa, huyện Đắk GLong, Cư Jút.
     Ngoài ra còn có các tài nguyên khá phong phú là nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng như đất sét phân bố rải rác trên địa bàn một số huyện, có thể khai thác công nghiệp, sản xuất gạch, ngói phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình kinh tế-xã hội cũng như xây dựng dân dụng cho khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh. Sét cao lanh làm gốm sứ cao cấp phân bố tập trung ở huyện Đắk Glong, thị xã Gia Nghĩa; puzơlan làm nguyên liệu cho xi măng, gạch ceramic; đá bazan bọt làm nguyên liệu sản xuất gạch ốp lát cách âm, cách nhiệt, sợi chịu nhiệt v.v.
     Nguồn nước khoáng có ở Đắk Song được khoan thăm dò tháng 6/1983, sâu 180 m khả năng khai thác rất lớn, khoảng 570 m3/ngày đêm và khí C02 đồng hành khoảng 9,62 tấn/ngàyđêm.
*Tài nguyên du lịch
     Với lợi thế nằm trên cao nguyên M’Nông mênh mông, là thượng nguồn của 02 dòng sông lớn là sông Sêrêpôk và sông Đồng Nai, Đăk Nông có nhiều thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Các thác nước đẹp, hùng vĩ, còn nguyên sơ nằm giữa rừng già như thác Trinh Nữ, thác Dray H'Linh, Dray Sáp, thác Gia Long, thác Dray Nur, thác Diệu Thanh, thác Gấu, thác Chuông, thác Diệu Thanh, thác Ngầm, thác Lưu Ly, thác Liêng Nung, thác Đắk Glun, thác Ba tầng, v.v.
     Những khu rừng nguyên sinh có thể xây dựng các khu du lịch sinh thái, dã ngoại, cưỡi ngựa, sắn bắn, cắm trại trong các khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung (25.000 ha), bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng (28.000 ha). Những hồ nước mênh mông có thể xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng, đua thuyền như Hồ Tây, EaSnô, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih, Đồng Nai 3,4.v.v.
     Các bon làng đồng bào dân M’Nông, Mạ, Ê đê… là những vùng đất ẩn chứa nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể quý báu, trong đó nổi bật hơn cả là cồng chiêng và các bộ sử thi; với những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống như Lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, lễ hội đâm trâu...là những tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa, dân tộc, nhân văn.
     Đó là điều kiện để hình thành các cụm du lịch, tour du lịch nếu được kết nối với các điểm du lịch của tỉnh Đắk Lắc, Bình Thuận, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh và Vương quốc Campuchia sẽ tạo nên hành trình du lịch hấp dẫn đối với du khách.

X.CƠ SỞ HẠ TẦNG

a.Hạ tầng giao thông

     Mạng lưới giao thông của tỉnh Đắk Nông chủ yếu là đường bộ, chưa có đường sắt và đường hàng không.
     Quốc lộ: Có 3 tuyến với tổng chiều dài là 310 km, phần lớn đã được trải nhựa, còn 89,5 km là đường cấp phối. Đó là các tuyến: QL 14 (Km733 - Km887) đoạn qua tỉnh dài 155 km, chạy qua địa bàn hầu hết các huyện trong tỉnh (trừ Krông Nô), nối tỉnh Đắk Nông với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên và với các tỉnh phía Nam; QL 14C (Km70- Km168): Đoạn chạy qua tỉnh dài 98 km, đi qua các huyện Đắk Mil, Đắk Song và Đắk R'Lấp (đi cửa khẩu Buk Prăng) hiện chưa được nâng cấp, vẫn còn 89,5km đường cấp phối; Quốc lộ 28 (Km121- Km179): Nối tỉnh Đắk Nông với tỉnh Lâm Đồng và các tỉnh miền Trung, đoạn qua tỉnh dài 58 km.
     Hiện nay đã đầu tư khôi phục, nâng cấp, mở rộng các tuyến đường như mở rộng quốc lộ 14 qua thị xã Gia Nghĩa, thị trấn Đắk Mil, thị trấn Đắk RLấp, mở rộng quốc lộ 28 qua thị xã Gia Nghĩa, thị trấn Quảng Khê, xây dựng Quốc lộ 28 đoạn tránh ngập thuỷ điện Đồng Nai 3-4, sửa chữa Quốc lộ 14C, nâng tỷ lệ nhựa hoá đường quốc lộ lên 76%
     Tỉnh lộ: Gồm có 6 tuyến với tổng chiều dài 318 km, còn 192 km đường đất chiếm 60,4%, gồm các tuyến: Tỉnh lộ 681: Kiến Đức - Tuy Đức dài 36 km; Tỉnh lộ 682: Đức Mạnh - Đắk Song dài 24 km; Tỉnh lộ 683: Đắk Mil - Krông Nô dài 40 km; Tỉnh lộ 684: Gia Nghĩa - Cư Jút dài 111 km; Tỉnh lộ 685: Kiến Đức - Cai Chanh dài 45 km; Tỉnh lộ 686: Đắk Bút So - Quảng Sơn dài 62 km. Hệ thống các đường tỉnh lộ trong 5 năm qua đã nhựa hoá được 120 km, nâng tỷ lệ nhựa hoá đường tỉnh lên 84%.
     Đường huyện: Với tổng chiều dài khoảng 497 km, trong đó chủ yếu là đường đất. Trong giai đoạn 2006 - 2010 đã làm mới 171km nhựa, nâng tỷ lệ nhựa hoá đường huyện lên 65%.
     Đường xã, thôn, buôn, bon: Có khoảng 2.173 km, chủ yếu là đường đất. Đến nay đã có 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, nhưng mới được trải nhựa và bê tông hóa có 17,6%, chủ yếu đoạn qua các thị trấn huyện, trung tâm xã. Giai đoạn 2006-2010 hệ thống đường xã, thôn, buôn/bon làm mới được 307 km nhựa, nâng tỷ lệ nhựa hoá lên 21%. Có 30 buôn, bon được làm đường nhựa, nâng số buôn bon có đường nhựa lên 69/139, nâng tỷ lệ đường các buôn/bon được nhựa hóa lên 50%.


b.Hạ tầng điện lực

     Nguồn điện sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt của tỉnh Đắk Nông chủ yếu từ lưới điện quốc gia, đã đầu tư xây dựng và vận hành trạm 110KV-16MVA.
     Hệ thống điện đã được phát triển rộng khắp, với 4 Trạm biến áp 110kV; lưới điện phân phối với 86,5km đường dây 35kV; 1.517 km đường dây trung thế 10kV và 22kV; 1.223 km đường dây hạ thế và 1.098 Trạm biến áp phụ tải, với tổng dung lượng là 161.730,5kVA. Tại các Khu Công nghiệp và Tiểu thủ Công nghiệp cũng đang khẩn trương cấp điện cho các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng điện lớn như: Nhà máy gỗ ván MDF Long Việt, Nhà máy gỗ ván Khải Vy, Nhà máy Alumin Nhân Cơ…
     Hệ thống điện lưới đang được cải tạo, nâng cấp, mở rộng đến vùng sâu, vùng xa. Trong 5 năm qua có nhiều dự án được triển khai xây dựng như: dự án 10 thôn, bon có đường dây trung áp đi qua; chương trình 10 thôn, bon căn cứ cách mạng; 20 bon đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ; chương trình 37 thôn, buôn thuộc dự án năng lượng nông thôn và hiện nay đang thực hiện hiện dự án 116 thôn, bon thuộc chương trình cấp điện 5 tỉnh Tây Nguyên của Chính phủ. Đến cuối năm 2010 có 100% thôn, buôn, bon có điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ được sử dụng điện đạt 90%.
     Sản lượng điện tiêu thụ toàn tỉnh Đắk Nông tăng với tốc độ tương đối cao, bình quân giai đoạn 2006 – 2010 đạt 23,7%/năm.


c.Hạ tầng thuỷ lợi và cấp, thoát nước đô thị


     Tỉnh đã đầu tư xây mới 74 công trình thủy lợi, nâng cấp 9 thuỷ lợi, 2 trạm bơm. Tổng số công trình thủy lợi đã hoàn thành đưa vào sử dụng cho đến nay 186 công trình, các công trình thủy lợi trên hiện tưới chủ động cho lúa 2 vụ khoảng 4.104 ha, 18.232 ha cà phê, đáp ứng khoảng 44% diện tích có nhu cầu.
     Cấp nước sinh hoạt: Tỷ lệ hộ được dùng nước sạch trong sinh hoạt 70%, đặc biệt là các vùng thị xã, thị trấn và một số thôn bon đồng bào dân tộc có tỷ lệ dùng nước sạch trên 90%, hiện nay tỉnh đang phấn đấu đưa tỷ lệ hộ dân dùng nước sạch đạt mục tiêu 85% trong năm 2012.
     Về thoát nước: Hiện tỉnh đang đầu tư hệ thống thu gom và khu xử lý nước thải tập trung cho các đô thị và các khu cụm công nghiệp.

d.Hạ tầng bưu chính, viễn thong
     Hạ tầng bưu chính, viễn thông phát triển cả về qui mô và chất lượng. Đến nay, toàn tỉnh có 10 bưu cục, 43 điểm bưu điện văn hóa xã, 107 đại lý bưu điện đa dịch vụ; bình quân 3.037người/ điểm phục vụ, bán kính bình quân một điểm phục vụ 3,6 km.
     Cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn thông được đầu tư rộng khắp từ trung tâm tỉnh đến các huyện, thị và các xã trên toàn địa bàn tỉnh. Hệ thống mạng cáp quang có chiều dài là 2.314 km, hệ thống mạng cáp đồng có chiều dài là 319 km. Tổng số thuê bao điện thoại cố định là 82.131 thuê bao, mật độ điện thoại cố định là 18,7 máy/100 dân. Dịch vụ điện thoại di động được cung cấp bởi 6 doanh nghiệp gồm VinaPhone, MobiFone, Viettel, Sfone, EVN Telecom, Vietnam mobile. Tổng số trạm BTS là 592 trạm; Tổng số thuê bao di động trả sau là 30.612 thuê bao.
     Đến năm 2010, đã có 100% số xã có điện thoại cố định, cáp quang được kéo đến 80% các xã và 100% khu vực trung tâm các xã trên địa bàn tỉnh đều có sóng điện thoại di động. Ngoài ra, các dịch vụ viễn thông di động 3G, dịch vụ truy cập Internet qua mạng di động 3G, dịch vụ Internet băng thông rộng (ADSL) và dịch vụ truyền hình qua giao thức Interrnet (IPTV) đã được triển khai, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng của địa phương.


e.Hạ tầng khu, cụm công nghiệp

     Tỉnh Đắk Nông đã đầu tư gần 1.000 tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng hai khu công nghiệp là Tâm Thắng (CưJut) và Nhân Cơ (ĐăkR’lâp), đồng thời triển khai đầu tư hạ tầng các cụm công nghiệp Đắk Ha (ĐăkGLong), Đắk Song, Krông Nô, Quảng Tâm (Tuy Đức), Thuận An (Đắk Mil) và CCN thị xã Gia Nghĩa, nhằm thu hút các doanh nghiệp đến đầu tư tại tỉnh.

     Trong số này, khu công nghiệp Tâm Thắng có diện tích 181 ha, cơ bản đã đầu tư xong cơ sở hạ tầng. Hiện có 20 dự án đang hoạt động, 04 dự án đang xây dựng cơ bản và 06 dự án đăng ký đầu tư; tổng vốn đăng ký đầu tư 1.186,6 tỷ đồng, vốn thực hiện 800,6 tỷ đồng; tỷ lệ lấp đầy KCN 56,4%, nếu tính cả các dự án đăng ký đầu tư thì tỷ lệ lấp đầy KCN là 77,2%. Khu công nghiệp Nhân Cơ có diện tích 95ha, chủ yếu phục vụ cho công nghiệp khai thác quặng bôxít và luyện alumin. Hiện nay đang đầu tư dự án nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ công suất 650.000 tấn/năm, tổng mức đầu tư trên 12.000 tỷ đồng, dự kiến đến cuối năm 2012 nhà máy hoàn thành và đi vào hoạt động.
     Đến hết năm 2010, các khu công nghiệp tập trung thu hút 189 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký đầu tư 1,7 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 680 triệu USD, chiếm 40% vốn đăng ký. Hàng năm, thu hút và giải quyết việc làm khoảng 5.000-10.000 lao động. Theo định hướng của tỉnh, các khu và cụm công nghiệp này phải gắn kết chặt chẽ với sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng nông lâm sản; tập trung phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp ngành nghề nông thôn gắn với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Theo: daknong.gov.vn
Xin mời xem tiếp phần sau.
Người đăng bài: Hồ Thanh Hà

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét