TP.HỒ CHÍ MINH - BÌNH DƯƠNG - BÌNH PHƯỚC ĐẮK NÔNG - THÁC DRAY SÁP - ĐẮK LẮK BUÔN MA THUỘT - BẢN ĐÔN
********************
Tạm biệt trạm dừng nghỉ Đại Nam ở Bù Đăng, Bình Phước chúng tôi tiếp tục lên đường. Qua khỏi xã Phú Sơn chúng tôi đến xã Đăk Ru, huyện Đăk R'Lấp, tỉnh Đắk Nông.
Bảng chào Đắk Nông như tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi |
Như vậy là chúng tôi đã chính thức đặt chân lên cao nguyên Mơ Nông, một trong những tỉnh Tây Nguyên với biết bao nhiêu điều kỳ thú. Chúng ta hãy tìm hiểu đôi nét về tỉnh Đắk Nông nhé.
GIỚI THIỆU VỀ TỈNH ĐĂK NÔNG
I.VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Đắk Nông là một trong 5 tỉnh Tây
Nguyên, thuộc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây
Nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn; được xác định trong khoảng tọa độ địa lý: 11045’
đến 12050’ vĩ độ Bắc, 107013’đến 108010’ kinh
độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp
tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp Vương
quốc Campuchia.
Đắk Nông có diện tích tự nhiên có
6.514,38 km2, có 08 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã. Với dân số 510.570 người, cùng với 33 dân tộc anh em đang làm ăn, sinh sống.
Trung tâm tỉnh lỵ là Thị xã Gia Nghĩa.
Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Nông |
Nằm ở cửa ngõ Tây Nguyên, Đắk
Nông có Quốc lộ 14 nối thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền đông Nam bộ với
các tỉnh Tây nguyên, cách Thành phố Hồ Chí Minh 230 km về phía Bắc và cách
Thành phố Ban Mê Thuột (Đắk Lăk) 120 km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28 nối Đắk
Nông với Lâm Đồng, Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách Thành phố
Đà Lạt (Lâm Đồng) 120 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 160 km về phía
Đông.
Đắk Nông có 130 km đường biên
giới tiếp giáp tỉnh Mondulkiri, có 02 cửa khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối
thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom Penh, Siem Reap, v.v. của nước bạn
Campuchia.
Trong tương lai, khi được triển
khai thì các tuyến đường sắt Đắk Nông-Chơn Thành-Di An ra cảng Thị Vải, Đăk
Nông – Tân Rai ra cảng Kê Gà sẽ mở ra cơ hội lớn cho Đắk Nông đẩy mạnh khai
thác các thế mạnh của tỉnh.
Bản đồ du lịch tỉnh Đắk Nông |
Vị trí địa lý như trên sẽ tạo
điều kiện cho Đắk Nông có thể mở rộng giao lưu với các tỉnh trong khu vực Tây
nguyên; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn
Campuchia, là nguồn động lực để Đăk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
trong tương lai sẽ trở thành trung tâm phát triển kinh tế năng động của khu vực
Tây Nguyên.
II.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN
Đắk Nông là vùng đất cổ, nằm trên
cao nguyên M’Nông, phía Tây Nam vùng Tây nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn, có
độ cao trung bình từ 600 - 700m, có nơi lên đến 1.970m so với mực nước biển.
Là nơi sinh sống lâu đời của các dân tộc bản địa như M’Nông, Mạ, Ê đê …, theo
chế độ cộng đồng, thị tộc, bộ lạc, trải dài trên một địa bàn rộng lớn.
Do vị trí địa lý, vùng đất Đắk
Nông nói riêng, vùng đất Tây Nguyên nói chung, nằm ở ngã 3 của các quốc gia
Đông Dương, luôn chịu sự tranh chấp của nhiều thế lực bên ngoài với các tộc
người bản địa hoặc giữa các thế lực xâm lược với nhau. Vì vậy, vùng đất này
luôn chịu sự xáo trộn về ranh giới địa lý hành chính.
Từ năm 1893, triều đình nhà
Nguyễn buộc phải chấp nhận để Pháp toàn quyền cai trị vùng cao nguyên Trung
phần, Đăk Nông trở thành vùng đất thuộc quyền cai trị trực tiếp của thực dân
Pháp.
Không chịu khuất phục dưới ách
thống trị của thực dân, các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Đắk Nông nói riêng đã
vùng lên, chống thực dân xâm lược mà điển hình là các cuộc khởi nghĩa của
N’Trang Gưh (1845-1914, tù trưởng buôn Cuah Kplang), từ năm 1887 đến năm 1914,
ông từng lãnh đạo nghĩa quân bao vây tiêu diệt đồn Buôn Tur, buôn Riăng, buôn
Dur, buôn Tinh, đồn Phơty…; cuộc khởi nghĩa của N’Trang Lơng (1870 - 1935, là
người dân tộc M’Nông), Ông đã đứng lên lãnh đạo các dân tộc M’ Nông, Stiêng,
Mạ… vũ trang chống Pháp từ cuối năm
1911, cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp vùng cao nguyên M'Nông và được nhiều tù
trưởng tài giỏi khác như R'Dinh, R'Ong (tù trưởng của các buôn Bu Jeng Chet, Bu
Mera, Bu Nơr, Bu Nốp... thuộc tổng DakRtik, nay là tỉnh Đắk Nông) tham gia. Giữa tháng 5 năm 1935, quân Pháp tập
trung tiến công đại bản doanh của nghĩa quân. Tù trưởng N’Trang Lơng bị trọng
thương và tử thương đêm 23 tháng 5 năm 1935.
Sau khi hoàn thành việc xâm lược
và bình định khu vực Tây Nguyên, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập hệ thống
chính quyền tay sai thực dân trên địa bàn Đăk Nông để kiểm soát dân chúng, tập
trung ở Đăk Mil, Đăk Song. Năm 1940, bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột, chúng còn
cho xây dựng Ngục Đăk Mil (nay thuộc huyện Đăk Mil, Đăk Nông), nhằm đày ải và
tra tấn các chiến sĩ cách mạng của ta. Ngục Đăk Mil trở thành một cơ sở cách
mạng trên địa bàn huyện và đã chứng kiến nhiều lần vượt ngục dũng cảm của những
người Cộng sản yêu nước.
Trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp (1945 - 1954) Đắk Nông là vùng địch tạm chiếm đóng. Đồng bào dân tộc
M’Nông, Mạ… với truyền thống kiên cường, anh dũng trong đấu tranh chống ngoại
xâm đã được sớm giác ngộ và đi theo cách mạng. Năm 1950, tỉnh Đắk Lắk cử Đội
công tác 124 về tiến hành xây dựng cơ sở ở xung quanh núi Nâm Nung.
Những năm 1954 - 1959, trong thời
kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiều thanh niên M’Nông, Mạ… đã
giác ngộ cách mạng, thoát ly và được đưa vào vùng hậu cứ đào tạo để sau này
phục vụ địa phương. Ban Cán sự Đảng kết hợp với đội công tác tuyên truyền, vận
động thành lập được trung đội du kích người dân tộc M’Nông để chiến đấu chống
Pháp. Đây là những lực lượng tiền thân của lực lượng quân sự tỉnh sau này.
Từ năm 1959, khu vực Nâm Nung trở
thành khu căn cứ của lực lượng cách mạng. Tại căn cứ này, chính quyền cách mạng
đã xây dựng được 3 trung đội du kích, gồm 150 thanh niên M’Nông, đã huy động
được hàng chục ngàn ngày công phục vụ chiến đấu, vận động nhân dân đóng góp
hàng ngàn tấn lương thực, hàng trăm tấn thực phẩm cho cách mạng và xây dựng
hàng ngàn hầm chông, cạm bẫy, rào hàng chục cây số để chiến đấu bảo vệ hậu cứ,
bảo vệ an toàn cơ quan lãnh đạo tỉnh, huyện và các trạm hành lang.
Tháng 1/1959, chính quyền Sài Gòn
cắt một phần phía Tây của tỉnh Đắk Lắk, một phần quận Kiến Hòa của Thủ Dầu Một
để thành lập tỉnh Quảng Đức. Địa giới hành chính tỉnh Quảng Đức, về cơ bản
giống như địa giới tỉnh Đắk Nông ngày nay, được chia làm 3 quận: Quận Đức Lập,
quận Kiến Đức, quận Khiêm Đức và khu hành chính Đức Xuyên. Để phù hợp với yêu
cầu nhiệm vụ chiến lược và điều kiện chiến tranh, tháng 12 năm 1960, Trung ương
đã quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức dựa trên sự phân chia địa giới của địch
(lấy mật danh là B4), thuộc Liên tỉnh IV, do Liên khu V trực tiếp chỉ đạo; giữa
năm 1961, tỉnh Quảng Đức do khu VI trực tiếp chỉ đạo.
Đầu năm 1962, xuất phát từ yêu
cầu, nhiệm vụ của Cách mạng, Trung ương quyết định giải thể tỉnh Quảng Đức,
chuyển Đức Lập, Đức Xuyên nhập về tỉnh Đắk Lắk, Kiến Đức nhập về tỉnh Phước
Long, Khiêm Đức nhập về tỉnh Lâm Đồng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng, tháng 5/1975, thực hiện chủ trương của Trung ương, tỉnh Quảng Đức được
thành lập lại, Chính quyền Cách mạng đã nhanh chóng chỉ đạo các cấp, các ngành
ổn định tổ chức, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, khắc phục hậu
quả chiến tranh, từng bước phát triển kinh tế xã hội. Tháng 11/1975, tỉnh Quảng
Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk.
Từ ngày 01/01/2004, tỉnh Đắk Nông
được tái lập theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội trên
cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk. Hiện nay, tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên là
6.514,38 km2, có 08 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã
gồm: Cư Jut, Đăk Mil, Krông Nô, Đăk Song, Đăk Rlâp, Đăk Glong, Tuy Đức và thị
xã Gia Nghĩa.
III.ĐỊA HÌNH
Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên
M’Nông, độ cao trung bình khoảng 600 m đến 700m so với mặt nước biển, có nơi
lên đến 1.982m (Tà Đùng).
Nhìn tổng thể, địa hình Đắk Nông
như hai mái của một ngôi nhà mà đường nóc là dãy núi Nam Nung, chạy dài từ Đông
sang Tây, có độ cao trung bình khoảng 800m, có nơi cao đến hơn 1.500m. Địa hình
có hướng thấp dần từ Đông sang Tây. Các huyện Đăk Song, Đăk Mil, Cư Jut, Krông
Nô thuộc lưu vực sông Krông Nô, sông Srêpốk nên thấp dần từ Nam xuống Bắc. Các
huyện Tuy Đức, Đăk Rlâp, Đăk Glong và thị xã Gia Nghĩa thuộc thượng nguồn lưu
vực sông Đồng Nai nên thấp dần từ Bắc xuống Nam.
Vì vậy, Đắk Nông có địa hình đa
dạng và phong phú, bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ,
hiểm trở với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen
kẽ các dải đồng bằng thấp trũng. Địa hình thung lũng thấp, có độ dốc từ 0-30
chủ yếu phân bố dọc sông Krông Nô, Sêrêpôk, thuộc các huyện Cư Jút, Krông
Nô. Địa hình cao nguyên đất đỏ bazan chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung
bình 600 - 800 m, độ dốc khoảng 5-100. Địa hình chia cắt mạnh
và có độ dốc lớn > 150 phân bố chủ yếu trên địa bàn các huyện Đăk
Glong, Đắk R'Lấp.
IV.KHÍ HẬU THỜI TIẾT
Đắk Nông là khu vực chuyển tiếp
giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây Nguyên và Đông Nam bộ, chế độ khí hậu mang đặc
điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng có sự nâng lên của
địa hình nên có đặc trưng của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh
hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4
đến hết tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến
hết tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
Nhiệt độ trung bình năm 22-230C, nhiệt độ cao nhất 350C, tháng nóng nhất là tháng 4. Nhiệt độ
thấp nhất 140C, tháng lạnh nhất vào tháng 12. Tổng số giờ nắng trong
năm trung bình 2000-2300 giờ. Rất phù hợp
với phát triển các cây trồng nhiệt đới lâu năm.
Lượng mưa trung bình năm là 2.513
mm, lượng mưa cao nhất là 3.000mm. Tháng mưa nhiều nhất vào tháng 8, 9; mưa ít
nhất vào tháng 1, 2. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Độ bốc hơi mùa khô
14,6-15,7 mm/ngày, mùa mưa 1,5-1,7 mm/ngày.
Hướng gió thịnh hành mùa mưa là
Tây Nam, hướng gió thịnh hành mùa khô là Đông Bắc, tốc độ gió bình quân 2,4
-5,4 m/s , hầu như không có bão nên không gây ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên cũng như các vùng khác
của Tây Nguyên, điều bất lợi cơ bản về khí hậu là sự mất cân đối về lượng mưa
trong năm và sự biến động lớn về biên độ nhiệt ngày đêm và theo mùa, nên yếu tố
quyết định đến sản xuất và sinh hoạt là việc cấp nước, giữ nước và việc bố trí
mùa vụ cây trồng.
V.THỦY VĂN
Đắk Nông có mạng lưới sông suối,
hồ, đập phân bố tương đối đều khắp. Đây là điều kiện thuận lợi để khai thác
nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng các công trình
thủy điện và phục vụ nhu cầu dân sinh.
Các sông chính chảy qua địa phận
tỉnh gồm:
Sông Sêrêpôk: do hai
nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu với nhau. Khi chảy
qua địa phận huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, do kiến tạo địa chất phức tạp, lòng
sông trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ, vừa có cảnh quan
thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện mang lại giá trị kinh tế. Đó là
thác Trinh Nữ, Dray H'Linh, Gia Long, ĐraySap. Các suối Đắk Gang, Đắk Nir, Dray
H'Linh, Ea Tuor, Đắk Ken, Đắk Klou, Đắk Sor cũng đều là thượng nguồn của sông
Sêrêpôk.
Sông Krông Nô: Bắt nguồn
từ dãy núi cao trên 2.000 m phía Đông Nam tỉnh Đắk Lắc, chảy qua huyện
Krông Nô. Sông Krông Nô có ý nghĩa rất quan trọng đối với sản xuất và đời sống
dân cư trong tỉnh. Còn nhiều suối lớn nhỏ khác suối Đắk Mâm, Đắk Rô, Đắk Rí,
Đắk Nang là thượng nguồn của sông Krông Nô.
Hệ thống sông suối thượng
nguồn sông Đồng Nai: Sông Đồng Nai dòng chảy chính không chảy qua địa phận
Đắk Nông nhưng có nhiều sông suối thượng nguồn. Đáng kể nhất là: Suối Đắk Rung
bắt nguồn từ khu vực Thuận Hạnh, Đắk Nông với chiều dài 90 km.
Suối Đắk Nông có
lưu lượng trung bình 12,44m3/s. Dòng chảy trung bình 47,9
m3/skm2. Suối Đắk Buk So là ranh giới giữa huyện Đắk Song và Đắk
R'Lấp. Suối Đắk R'Lấp có diện tích lưu vực 55,2 km2, là hệ thống suối
đầu nguồn của thủy điện Thác Mơ. Suối Đắk R'Tih chảy về sông Đồng Nai, đầu
nguồn của thủy điện
Đắk R'Tih và thủy điện Trị An.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có
nhiều hồ, đập lớn vừa có tác dụng giữ nước cho sản xuất nông, công nghiệp, thủy
điện, vừa là tiềm năng để phát triển du lịch như Hồ Tây, Ea Snô, Ea T'Linh, Đắk
Rông, Đak Đier, Đăk R’tih, Đồng Nai 3, 4.v.v.
Chế độ lũ: Chịu sự chi
phối mạnh của sông Krông Nô. Tại Đức Xuyên lũ lớn thường xảy ra vào tháng 9,
10. Hàng năm dòng sông này thường gây ngập lũ ở một số vùng thuộc các xã phía
nam huyện Krông Nô. Lũ trên sông Sêrêpôk là tổ hợp lũ của 2 sông Krông Nô và
Krông Na, lũ xuất hiện vào tháng 9 và 10.
VI.ĐẤT ĐAI
Đăk Nông có tổng diện tích đất tự
nhiên là 651.561 ha.
Về thổ nhưỡng: Đất đai Đăk Nông
khá phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên
nền đá macma axit và đá cát chiếm khoảng 40% diện tích và được phân bổ đều toàn
tỉnh. Đất đỏ bazan trên nền đá bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích, có
tầng dày bình quân 120 cm, phân bổ chủ yếu ở Đăk Mil, Đăk Song. Còn lại là đất
đen bồi tụ trên nền đá bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dòng sông,
suối.
Về sử dụng: Đất nông nghiệp
có diện tích là 306.749 ha, chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó đất
trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm phần lớn diện tích. Đất cây hàng năm chủ
yếu là đất trồng lúa, ngô và cây công nghiệp ngắn ngày. Đất lâm nghiệp có rừng
diện tích là 279.510ha, tỉ lệ che phủ rừng toàn tỉnh là 42,9%. Đất phi
nông nghiệp có diện tích 42.307 ha. Đất chưa sử dụng còn 21.327 ha, trong đó
đất sông suối và núi đá không có cây rừng là 17.994 ha.
VII.DÂN SỐ
Dân số toàn tỉnh là 510.570
người, trong đó dân số đô thị chiếm 14,9%, dân số nông thôn 85,1%. Tỉ lệ tăng
dân số tự nhiên là 1,57%. Mật độ dân số trung bình là 78,39 người/km2.
Dân cư phân bố không đều trên địa
bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ yếu tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn
huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ. Có những vùng dân cư thưa thớt
như một số xã của huyện Đắk Glong, Tuy Đức.
Dân số Đăk Nông là dân số trẻ,
trong độ tuổi còn đi học khoảng 165.000 người, chiếm 32%; trong độ tuổi lao
động có 325.000 người, chiếm 63%; độ tuổi trên 60 chỉ có hơn 20.000 người.
VII.DÂN TỘC
Đắk Nông là tỉnh có cộng đồng dân
cư gồm 40 dân tộc cùng sinh sống. Cộng đồng dân cư Đăk Nông được hình thành từ:
Đồng bào các dân tộc tại chỗ như M’Nông, Mạ, Ê đê, Khmer…; đồng bào Kinh sinh
sống lâu đời trên Tây nguyên và đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc mới di
cư vào lập nghiệp như Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao, H’Mông .v.v.
Cơ cấu dân tộc đa dạng, chủ
yếu là dân tộc Kinh, M'Nông, Nùng, H’Mông v.v. Dân tộc Kinh chiếm tỉ lệ 67,9%,
M'Nông chiếm 8,2%, Nùng chiếm 5,6%, H’Mông chiếm 4,5%, các dân tộc khác chiếm
tỉ lệ nhỏ; cá biệt có những dân tộc chỉ có một người sinh sống ở Đắk Nông như
Cơ Tu, Tà Ôi, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt.
VIII.TÔN GIÁO – TÍN NGƯỠNG
Đắk Nông là vùng đất sinh sống từ
hàng ngàn đời của đồng bào các dân tộc tại chỗ, đồng thời cũng là vùng đất quần
tụ của cư dân từ nhiều vùng miền về sinh cơ, lập nghiệp nên đời sống tâm linh,
tôn giáo, tín ngưỡng cũng vô cùng phong phú.
Đến nay, Đắk Nông có hơn 170.000
người là tín đồ của hơn 10 tôn giáo khác nhau, nhưng chủ yếu là Công giáo (hơn
100 ngàn, chiếm gần 20% dân số), Tin lành (hơn 50 ngàn, chiếm tỷ lệ 10% dân số)
và Phật giáo (hơn 20 ngàn, tỷ lệ 4% dân số).
Ngoài ra, đồng bào các dân tộc
Đăk Nông còn có rất nhiều tín ngưỡng để tôn thờ, đặc biệt là đồng bào các dân
tộc tại chỗ thờ cúng Yàng (Trời), thần Núi, thần Sông v.v. và rất nhiều lễ hội
như: Lễ hội Đâm trâu (ăn trâu). Lễ mừng nhà mới, Lễ mừng mùa, Lễ bỏ mả .v.v.
phong phú và đặc sắc.
IX.TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
*Tài nguyên đất
Về thổ nhưỡng: Đất đai Đắk Nông khá phong phú và
đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên nền đá macma axit
và đá cát chiếm khoảng 40% trong tổng diện tích 651.561 ha và được phân bổ đều toàn tỉnh. Đất đỏ
bazan trên nền đá bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích, có tầng dày bình
quân 120 cm, phân bổ chủ yếu ở Đăk Mil, Đăk Song. Còn lại là đất đen bồi tụ
trên nền đá bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dòng sông, suối.
Về sử dụng: Đất nông nghiệp có diện tích là 306.749 ha, chiếm
47% tổng diện tích tự nhiên. Đất lâm nghiệp có rừng diện tích là 279.510
ha, tỉ lệ che phủ rừng toàn tỉnh là 42,9%. Đất phi nông nghiệp có
diện tích 42.307 ha. Đất chưa sử dụng còn 21.327 ha, trong đó đất sông
suối và núi đá không có cây rừng là 17.994 ha.
Với tài nguyên đất đai nêu trên, Đăk Nông rất thuận lợi cho việc phát triển
các loại cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, cao su, chè, tiêu, điều trên nền
đất xám, đất đỏ bazan; đồng thời phát triển một diện tích lớn cây hàng năm như
lúa, ngô và các loại cây công nghiệp ngắn ngày khác trên đất đen bồi tụ, đất
Gley và đất phù sa ven sông suối.
*Tài nguyên rừng
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng của Đắk Nông là 279.510 ha chiếm 42,9% diện tích đất tự nhiên. Trong đó rừng
sản xuất là 212.752 ha, được phân bố đều khắp ở các huyện. Rừng phòng hộ là
37.499, chủ yếu tập trung ở các huyện Đắk R’lấp, Đắk Song, Đắk G’long, Đắk Min.
Rừng đặc dụng là 29.257 ha, chủ yếu tập trung ở huyện Đắk G’long và K’Rông Nô,
đây là rừng trong hai khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung, khu bảo tồn thiên nhiên
Tà Đùng với những khu rừng nguyên sinh có nhiều cảnh quan, thác nước đẹp tạo
nên quần thể du lịch hấp dẫn.
Rừng tự nhiên ở Đắk Nông nằm trong vùng hội tụ của hai luồng thực vật với
hai loại hình rừng: Rừng thường xanh phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng
mưa lớn, độ ẩm cao, tầng đất sâu như Krông Nô, Đăk Song, Đăk Glong, Tuy Đức.
Rừng khộp phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng mưa thấp, điều kiện khắc
nghiệt, các vùng lập địa xấu như bắc Đăk Mil, Cư Jut.
Rừng Đắk Nông có nhiều hệ động vật và thực vật phong phú và đa dạng, những
khu rừng nguyên sinh có nhiều loại gỗ quí và cây đặc sản vừa có giá trị kinh
tế, vừa có giá trị khoa học. Trong rừng còn nhiều động vật quí hiếm như voi,
gấu, hổ v.v. được ghi trong sách đỏ của nước ta và sách đỏ thế giới; có nhiều
loại dược liệu quí là nguồn nguyên liệu dồi dào để chế thuốc chữa bệnh trong y
học dân tộc.
*Tài nguyên nước
Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.513 mm, lượng mưa cao nhất là 3.000mm. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Vì vậy, nguồn nước mặt do
nguồn nước mưa cung cấp, tương đối dồi dào, thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt
dân cư trên địa bàn toàn tỉnh.
Do chịu ảnh
hưởng của khí hậu cao nguyên, lại nằm ở phía Tây, cuối dãy Trường Sơn nên vào
mùa khô thường mưa ít, nắng nóng kéo dài làm khô hạn, nhiều lúc thiếu nước gây
ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của dân cư nên tỉnh
đã chủ động xây dựng nhiều hồ đập chứa nước mặt phục vụ sinh hoạt và sản xuất
nông, công nghiệp, thủy điện, vừa là tiềm năng để phát triển du lịch như Hồ
Tây, EaSnô, Ea T'Linh, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih, Đồng Nai 3,4.v.v.
Nguồn nước ngầm: phân bố ở
hầu khắp cao nguyên bazan và các địa bàn trong tỉnh, có trữ lượng lớn ở độ sâu
40-90m. Đây là nguồn cung cấp nước bổ sung cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa
khô, được sử dụng phổ biến cho sinh hoạt, làm kinh tế vườn, kinh tế trang trại.
Hệ thống sông suối của Đắk
Nông dày đặc và phân bố tương đối đều khắp. Các sông chính chảy qua địa phận
tỉnh gồm hai hệ thống sống chính là: Sông Sêrêpôk do hai nhánh sông
Krông Nô và Krông Na hợp lưu, do kiến tạo địa chất phức tạp, lòng sông trở nên
hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ, vừa có cảnh quan thiên nhiên
đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện như thác Trinh Nữ, Dray H'Linh, Gia Long, Đray
Sap. Thượng nguồn sông Đồng Nai gồm nhiều sông suối Đăk Nông là thượng
nguồn như Suối Đắk Rung, Đắk Nông, Đắk Bukso, ĐắkR'Lấp, Đắk R'Tih …
Sông suối trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông có tiềm năng thủy điện dồi dào. Hệ thống suối đầu nguồn của các sông Đồng
Nai, Krông Nô, Sêrêpôk có thể xây dựng nhiều công trình thủy điện lớn với tổng
công suất khoảng 1500 MW như thuỷ điện Buôn Kuôp 280 MW, Đức Xuyên 92 MW, Buôn
TuaSrah 85 MW, Đắk Tih 140 MW, Đồng Nai 3-180 MW, Đồng Nai 4 – 340MW, Đồng Nai 6&6A
v.v. đang từng bước được đầu tư xây dựng.
*Tài nguyên khoáng sản
Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 178
mỏ khoáng sản với 16 loại khoáng sản chủ yếu: bauxit, wolfram, antimoal, bazan
bọt; bazan cột, bazan khối, cát xây dựng, đá bazan, đá granit, sét gạch ngói,
than bùn, opal, thiếc sa khoáng, kaolin, nước khoáng thiên nhiên, saphir.
Bô xít: Là nguồn
khoáng sản có trữ lượng lớn, phân bố ở thị xã Gia Nghĩa, các huyện Đắk GLong,
Đắk R'Lấp, Đắk Song, Tuy Đức, trữ lượng dự đoán 5,4 tỉ tấn, trữ lượng thăm dò
2,6 tỉ tấn, hàm lượng Al2O3 từ 35-40%.
Khoáng sản quí hiếm: Có
vàng, đá quí ngọc bích, saphir, opal…phân bổ rải rác ở Đăk Song, Đăk Glong, Đăk
Mil. Ngoài ra còn có Wolfram, thiếc, antimoal trên địa bàn thị xã Gia Nghĩa,
huyện Đắk GLong, Cư Jút.
Ngoài ra còn có các tài nguyên
khá phong phú là nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng như đất sét phân bố
rải rác trên địa bàn một số huyện, có thể khai thác công nghiệp, sản xuất gạch,
ngói phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình kinh tế-xã hội cũng như xây dựng dân
dụng cho khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh. Sét cao lanh làm gốm sứ cao
cấp phân bố tập trung ở huyện Đắk Glong, thị xã Gia Nghĩa; puzơlan làm nguyên
liệu cho xi măng, gạch ceramic; đá bazan bọt làm nguyên liệu sản xuất gạch ốp
lát cách âm, cách nhiệt, sợi chịu nhiệt v.v.
Nguồn nước khoáng có ở Đắk
Song được khoan thăm dò tháng 6/1983, sâu 180 m khả năng khai thác rất lớn,
khoảng 570 m3/ngày đêm và khí C02 đồng hành khoảng 9,62
tấn/ngàyđêm.
*Tài nguyên du lịch
Với lợi thế nằm trên cao nguyên
M’Nông mênh mông, là thượng nguồn của 02 dòng sông lớn là sông Sêrêpôk và sông
Đồng Nai, Đăk Nông có nhiều thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Các thác nước
đẹp, hùng vĩ, còn nguyên sơ nằm giữa rừng già như thác Trinh Nữ, thác Dray
H'Linh, Dray Sáp, thác Gia Long, thác Dray Nur, thác Diệu Thanh, thác Gấu, thác
Chuông, thác Diệu Thanh, thác Ngầm, thác Lưu Ly, thác Liêng Nung, thác Đắk
Glun, thác Ba tầng, v.v.
Những khu rừng nguyên sinh có thể
xây dựng các khu du lịch sinh thái, dã ngoại, cưỡi ngựa, sắn bắn, cắm trại
trong các khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung (25.000 ha), bảo tồn thiên nhiên Tà
Đùng (28.000 ha). Những hồ nước mênh mông có thể xây dựng các khu du lịch nghỉ
dưỡng, đua thuyền như Hồ Tây, EaSnô, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih, Đồng Nai
3,4.v.v.
Các bon làng đồng bào dân M’Nông,
Mạ, Ê đê… là những vùng đất ẩn chứa nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể
quý báu, trong đó nổi bật hơn cả là cồng chiêng và các bộ sử thi; với những nét
sinh hoạt văn hóa truyền thống như Lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, lễ hội đâm
trâu...là những tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa, dân tộc, nhân văn.
Đó là điều kiện để hình thành các
cụm du lịch, tour du lịch nếu được kết nối với các điểm du lịch của tỉnh Đắk
Lắc, Bình Thuận, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh và Vương quốc Campuchia sẽ tạo nên
hành trình du lịch hấp dẫn đối với du khách.
X.CƠ
SỞ HẠ TẦNG
a.Hạ tầng giao thông
Mạng lưới giao thông của tỉnh Đắk Nông chủ yếu là
đường bộ, chưa có đường sắt và đường hàng không.
Quốc lộ: Có 3 tuyến với tổng chiều dài là 310 km, phần lớn đã được trải nhựa, còn
89,5 km là đường cấp phối. Đó là các tuyến: QL 14 (Km733 - Km887) đoạn qua tỉnh
dài 155 km, chạy qua địa bàn hầu hết các huyện trong tỉnh (trừ Krông Nô), nối
tỉnh Đắk Nông với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên và với các tỉnh phía Nam; QL
14C (Km70- Km168): Đoạn chạy qua tỉnh dài 98 km, đi qua các huyện Đắk Mil, Đắk
Song và Đắk R'Lấp (đi cửa khẩu Buk Prăng) hiện chưa được nâng cấp, vẫn còn
89,5km đường cấp phối; Quốc lộ 28 (Km121- Km179): Nối tỉnh Đắk Nông với tỉnh
Lâm Đồng và các tỉnh miền Trung, đoạn qua tỉnh dài 58 km.
Hiện nay đã đầu tư khôi phục, nâng cấp, mở rộng các tuyến đường như mở rộng
quốc lộ 14 qua thị xã Gia Nghĩa, thị trấn Đắk Mil, thị trấn Đắk RLấp, mở rộng
quốc lộ 28 qua thị xã Gia Nghĩa, thị trấn Quảng Khê, xây dựng Quốc lộ 28 đoạn
tránh ngập thuỷ điện Đồng Nai 3-4, sửa chữa Quốc lộ 14C, nâng tỷ lệ nhựa hoá
đường quốc lộ lên 76%
Tỉnh lộ: Gồm có 6 tuyến với tổng chiều dài 318 km, còn 192
km đường đất chiếm 60,4%, gồm các tuyến: Tỉnh lộ 681: Kiến Đức - Tuy Đức dài 36
km; Tỉnh lộ 682: Đức Mạnh - Đắk Song dài 24 km; Tỉnh lộ 683: Đắk Mil - Krông Nô
dài 40 km; Tỉnh lộ 684: Gia Nghĩa - Cư Jút dài 111 km; Tỉnh lộ 685: Kiến
Đức - Cai Chanh dài 45 km; Tỉnh lộ 686: Đắk Bút So - Quảng Sơn dài 62 km. Hệ
thống các đường tỉnh lộ trong 5 năm qua đã nhựa hoá được 120 km, nâng tỷ lệ
nhựa hoá đường tỉnh lên 84%.
Đường huyện: Với tổng chiều dài khoảng 497 km, trong đó chủ yếu
là đường đất. Trong giai đoạn 2006 - 2010 đã làm mới 171km nhựa, nâng tỷ lệ nhựa
hoá đường huyện lên 65%.
Đường xã, thôn, buôn, bon: Có khoảng 2.173 km, chủ yếu là đường đất.
Đến nay đã có 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, nhưng mới được trải
nhựa và bê tông hóa có 17,6%, chủ yếu đoạn qua các thị trấn huyện, trung tâm
xã. Giai đoạn 2006-2010 hệ thống đường xã, thôn, buôn/bon làm mới được 307 km
nhựa, nâng tỷ lệ nhựa hoá lên 21%. Có 30 buôn, bon được làm đường nhựa, nâng số
buôn bon có đường nhựa lên 69/139, nâng tỷ lệ đường các buôn/bon được nhựa hóa
lên 50%.
b.Hạ tầng điện lực
Nguồn điện sử dụng cho sản xuất và sinh
hoạt của tỉnh Đắk Nông chủ yếu từ lưới điện quốc gia, đã đầu tư xây dựng và vận
hành trạm 110KV-16MVA.
Hệ thống điện đã được phát triển rộng
khắp, với 4 Trạm biến áp 110kV; lưới điện phân phối với 86,5km đường dây 35kV;
1.517 km đường dây trung thế 10kV và 22kV; 1.223 km đường dây hạ thế và 1.098
Trạm biến áp phụ tải, với tổng dung lượng là 161.730,5kVA. Tại các Khu Công
nghiệp và Tiểu thủ Công nghiệp cũng đang khẩn trương cấp điện cho các doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng điện lớn như: Nhà máy gỗ ván MDF Long Việt, Nhà máy
gỗ ván Khải Vy, Nhà máy Alumin Nhân Cơ…
Hệ thống điện lưới đang được cải tạo, nâng
cấp, mở rộng đến vùng sâu, vùng xa. Trong 5 năm qua có nhiều dự án được triển
khai xây dựng như: dự án 10 thôn, bon có đường dây trung áp đi qua; chương
trình 10 thôn, bon căn cứ cách mạng; 20 bon đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ;
chương trình 37 thôn, buôn thuộc dự án năng lượng nông thôn và hiện nay đang
thực hiện hiện dự án 116 thôn, bon thuộc chương trình cấp điện 5 tỉnh Tây
Nguyên của Chính phủ. Đến cuối năm 2010 có 100% thôn, buôn, bon có điện lưới
quốc gia, tỷ lệ hộ được sử dụng điện đạt 90%.
Sản lượng điện tiêu thụ toàn tỉnh Đắk Nông
tăng với tốc độ tương đối cao, bình quân giai đoạn 2006 – 2010 đạt 23,7%/năm.
c.Hạ tầng thuỷ lợi và cấp, thoát nước đô thị
Tỉnh đã đầu tư xây mới 74 công trình thủy lợi, nâng cấp 9 thuỷ lợi, 2 trạm
bơm. Tổng số công trình thủy lợi đã hoàn thành đưa vào sử dụng cho đến nay 186
công trình, các công trình thủy lợi trên hiện tưới chủ động cho lúa 2 vụ khoảng
4.104 ha, 18.232 ha cà phê, đáp ứng khoảng 44% diện tích có nhu cầu.
Cấp nước sinh hoạt: Tỷ lệ hộ được
dùng nước sạch trong sinh hoạt 70%, đặc biệt là các vùng thị xã, thị trấn và
một số thôn bon đồng bào dân tộc có tỷ lệ dùng nước sạch trên 90%, hiện nay
tỉnh đang phấn đấu đưa tỷ lệ hộ dân dùng nước sạch đạt mục tiêu 85% trong năm
2012.
Về thoát nước: Hiện tỉnh đang đầu
tư hệ thống thu gom và khu xử lý nước thải tập trung
cho các đô thị và các khu cụm công nghiệp.
d.Hạ tầng bưu chính, viễn thong
Hạ tầng bưu chính, viễn
thông phát triển cả về qui mô và chất lượng. Đến nay, toàn tỉnh có 10 bưu cục,
43 điểm bưu điện văn hóa xã, 107 đại lý bưu điện đa dịch vụ; bình quân
3.037người/ điểm phục vụ, bán kính bình quân một điểm phục vụ 3,6 km.
Cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn
thông được đầu tư rộng khắp từ trung tâm tỉnh đến các huyện, thị và các xã trên
toàn địa bàn tỉnh. Hệ thống mạng cáp quang có chiều dài là 2.314 km, hệ thống
mạng cáp đồng có chiều dài là 319 km. Tổng
số thuê bao điện thoại cố định là 82.131 thuê bao, mật độ điện thoại cố định là
18,7 máy/100 dân. Dịch vụ điện thoại di động được cung cấp bởi 6 doanh
nghiệp gồm VinaPhone, MobiFone, Viettel, Sfone, EVN Telecom, Vietnam mobile. Tổng
số trạm BTS là 592 trạm; Tổng số thuê bao di động trả sau là 30.612 thuê bao.
Đến năm 2010, đã có 100% số xã có
điện thoại cố định, cáp quang được kéo đến 80% các xã và 100% khu vực trung tâm
các xã trên địa bàn tỉnh đều có sóng điện thoại di động. Ngoài ra, các dịch vụ
viễn thông di động 3G, dịch vụ truy cập Internet qua mạng di động 3G, dịch vụ Internet
băng thông rộng (ADSL) và dịch vụ truyền hình qua giao thức Interrnet (IPTV) đã
được triển khai, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ chỉ đạo, điều
hành của các cấp, các ngành, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội và đảm
bảo an ninh - quốc phòng của địa phương.
e.Hạ tầng khu, cụm công nghiệp
Tỉnh Đắk Nông đã đầu tư gần 1.000 tỷ đồng xây dựng
cơ sở hạ tầng hai khu công nghiệp là Tâm Thắng (CưJut) và Nhân Cơ (ĐăkR’lâp),
đồng thời triển khai đầu tư hạ tầng các cụm công nghiệp Đắk Ha (ĐăkGLong), Đắk Song, Krông Nô, Quảng Tâm
(Tuy Đức), Thuận An (Đắk Mil) và CCN thị xã Gia Nghĩa, nhằm thu hút các doanh
nghiệp đến đầu tư tại tỉnh.
Trong số này, khu công nghiệp Tâm Thắng có diện tích 181 ha, cơ bản đã đầu
tư xong cơ sở hạ tầng. Hiện có 20 dự án đang hoạt động, 04 dự án đang xây dựng
cơ bản và 06 dự án đăng ký đầu tư; tổng vốn đăng ký đầu tư 1.186,6 tỷ đồng, vốn
thực hiện 800,6 tỷ đồng; tỷ lệ lấp đầy KCN 56,4%, nếu tính cả các dự án đăng ký
đầu tư thì tỷ lệ lấp đầy KCN là 77,2%. Khu công nghiệp Nhân Cơ có diện tích
95ha, chủ yếu phục vụ cho công nghiệp khai thác quặng bôxít và luyện alumin.
Hiện nay đang đầu tư dự án nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ công suất 650.000
tấn/năm, tổng mức đầu tư trên 12.000 tỷ đồng, dự kiến đến cuối năm 2012 nhà máy
hoàn thành và đi vào hoạt động.
Đến hết năm 2010, các khu công nghiệp tập trung thu hút 189 dự án còn hiệu
lực, vốn đăng ký đầu tư 1,7 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 680 triệu USD, chiếm
40% vốn đăng ký. Hàng năm, thu hút và giải quyết việc làm khoảng 5.000-10.000
lao động. Theo định hướng của tỉnh, các khu và cụm công nghiệp này phải gắn kết
chặt chẽ với sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng nông lâm sản; tập trung phát
triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp ngành nghề nông thôn gắn với tiềm năng,
thế mạnh của tỉnh.
Theo: daknong.gov.vn
Xin mời xem tiếp phần sau.
Người đăng bài: Hồ Thanh Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét