Phóng sự ngày 1 tiếp theo: Tỉnh Đắk Nông - Đồng bào M'Nông
TP.HỒ CHÍ MINH - BÌNH DƯƠNG - BÌNH PHƯỚC ĐẮK NÔNG - THÁC DRAY SÁP - ĐẮK LẮK BUÔN MA THUỘT - BẢN ĐÔN
*********************
Nếu tỉnh Bình Phước có đồng bào S'Tiêng với huyền thoại Sóc Bom Bo thì khi đến với tỉnh Đắk Nông, cao nguyên Mơ Nông, chúng ta lại có dịp tiếp xúc với những nét văn hóa đặc trưng của đồng bào M'Nông với những trang sử vàng oanh liệt chống ngoại xâm của các anh hùng N'Trang Gưh, N'Trang Lơng.
Chúng ta hãy tìm hiểu vài nét về đồng bào M'Nông ở tỉnh Đắk Nông nhé.
ĐỒNG
BÀO M'NÔNG
Đồng bào M'Nông hay còn gọi là người Bu-dâng, Preh,
Ger, Nong, Prâng, Rlăm, Kuyênh, Chil Bu
Nor, nhóm M'Nông-Bu dâng, là sắc tộc sử dụng ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Đồng bào M'Nông trong lễ hội |
I.DÂN SỐ VÀ ĐỊA BÀN CƯ TRÚ
*Tại
Việt Nam
Đồng bào M'Nông là 1 trong số 54 dân tộc anh
em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam . Địa bàn cư trú của đồng bào M'Nông bao gồm những phần đất thuộc các huyện
miền núi Tây Nam tỉnh Đắk Lắk,
Đắk Nông, Quảng Nam,
Lâm Đồng và Bình Phước (chiếm trên 99,3%) của Việt Nam,
nhưng tập trung đông nhất là tại các huyện của tỉnh Đắk Lắk.
Dân số của
đồng bào M'Nông theo điều tra dân số năm
1999 là 92.451 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người M’Nông ở Việt
Nam có dân số 102.741 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Đồng bào M’Nông cư trú tập trung
tại các tỉnh: Đắk Lắk
(40.344 người, chiếm 39,3 % tổng số người M’Nông tại Việt Nam), Đắk Nông
(39.964 người, chiếm 38,9 % tổng số người M’Nông tại Việt Nam), Lâm Đồng
(9.099 người), Bình Phước (8.599 người), Quảng Nam
(13.685 người).
*Tại
Campuchia
Tại Campuchia,
theo SIL International, năm
2002 có khoảng 20.000 người M'Nông, chủ yếu sinh sống trong tỉnh Mondulkiri, giáp biên giới với các tỉnh Đắk
Nông và Đắk Lắk của Việt Nam.
Tại đây họ còn được gọi là Phong, Phnong, Bunong, Budong, Phanong.
II.ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ
Người M'Nông làm rẫy là chính, ruộng nước chỉ có ở
vùng ven hồ, đầm, sông. Những con vật nuôi thông thường ở trong các gia đình là
trâu, chó, dê, lợn, gà và một số nhà nuôi cả voi. Người M'Nông ở Bản Đôn
có nghề săn và thuần dưỡng voi nổi tiếng. Nghề thủ công của người M'Nông có dệt
vải sợi bông do phụ nữ đảm nhiệm và đan lát các dụng cụ như gùi, giỏ, mùng...
do đàn ông làm.
Đan gùi là 1 trong những nghề truyền thống của đồng bào M'Nông |
III.TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG
Mỗi làng thường có vài chục nóc nhà, ông trưởng
làng đóng vai trò to lớn trong dân làng. Mọi người sống theo kinh nghiệm và tập
tục truyền lại từ nhiều đời. Nam nữ, trẻ, già ai cũng thích rượu cần và thuốc lá cuốn.
Già làng đóng vai trò to lớn trong cộng đồng |
Các cụ già đang răn dạy con cháu trong buôn làng |
IV.HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Đồng bào M'Nông theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, trong gia
đình người vợ giữ vị trí chính, nhưng người chồng không bị phân biệt đối xử, họ
sống tôn trọng nhau. Cha mẹ về già thường ở với con gái út.
Đám cưới của đồng bào M'Nông |
Theo nếp cũ, đến tuổi trưởng thành, người M'Nông
phải cà răng mới được yêu đương lấy vợ lấy chồng. Phong tục cưới xin gồm 3 bước
chính là dạm hỏi, lễ đính hôn, lễ cưới. Nhưng cũng có nơi đôi vợ chồng trẻ ở
phía nào là tùy thỏa thuận giữa hai gia đình. Người M'Nông thích nhiều con,
nhất là con gái. Sinh con sau một năm mới đặt tên chính thức.
V.TỤC LỆ MA CHAY
Trong tang lễ, người M'Nông có tập quán ca hát, gõ
chiêng trống bên áo quan suốt ngày đêm. Sau khi hạ huyệt, họ dùng cây, que và
lá cây trải kín miệng hố rồi mới lấp đất lên trên. Qua 7 ngày hoặc một tháng,
gia chủ làm lễ đoạn tang.
VI.CÁC NHÓM ĐỊA PHƯƠNG NGƯỜI
M’NÔNG
Dân tộc M'nông thuộc chủng Indonesian. Có tầm vóc
thấp, nước da ngăm đen, môi hơi dày, râu thưa, mắt nâu đen, tóc đen, thẳng.
Nhiều người có tóc uốn.
Ngôn ngữ M'nông thuộc nhóm Môn-Khmer miền núi phía
Nam. Trong vốn từ vựng M'nông bộc lộ rõ sự ảnh hưởng của tiếng Chăm, qua ngôn
ngữ "Đ", Giarai, là những ngôn ngữ thuộc nhóm Malay-Polynesia, bên
cạnh sự ảnh hưởng sâu đậm hơn của nhom Môn-Khmer...
Trong quá trình lịch sử phát triển tộc người của
mình, do địa bàn cư trú phân tán trên một vùng rừng núi hiểm trở, việc giao lưu
giữa các vùng M'nông rất khó khăn, hạn chế, đã phân chia cư dân M'nông ra rất
nhiều nhóm địa phương. Nhưng các nhóm này vẫn tự nhận một tên gọi chung là
M'nông.
Những nhóm địa phương của người M'nông có thể kể
đến như:
- M'nông Gar: ở Tây Bắc Lâm Đồng và vùng hồ Lăk
thuộc tỉnh Đắk Lắk
- M'nông
Chil: cư trú trên địa
bàn huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Lâm Hà thuộc tỉnh Lâm Đồng và huyện Lắk thuộc tỉnh Đắk Lắk...
- M'nông Nông:
ở Đăk Min tỉnh Đắk Nông.
- M'nông
Préh: ở Đăk Min, Krông
Nô tỉnh Đắk Nông và huyện
Lắk, tỉnh Đắk Lắk
- M'nông
Kuênh: ở huyện Krông
Pách, tỉnh Đắk Lắk.
- M'nông
Prâng: ở Đăk Min
tỉnh Đắc Nông và huyện Lắk,
EA Súp thuộc tỉnh Đắk Lắk
- M'nông
R'Lâm: ở huyện Lắk, tỉnh
Đắk Lắk.
- M'nông Bu
đâng: ở Bản Đôn, Đắk Lắk.
- M'nông Bu
Nor: ở huyện Đăk Min, tỉnh Đắk Nông.
- M'nông Din
Bri: ở vùng tả ngạn sông
EA Krông, tỉnh Đắk Lắk
- M'nông Đíp: ở tỉnh Bình Phước và Đắk Lắk.
- M'nông
Bíat: ở tỉnh Bình Phước
và bên kia biên giới Campuchia - Việt Nam.
- M'nông Bu
Dêh: ở vùng giáp ranh
giữa tỉnh Bình Phước và tỉnh Đắk Lắk.
- M'nông Si
Tô: ở Đăk Song, tỉnh Đắk
Nông.
- M'nông Káh: ở các huyện Lắk, M'Drăk thuộc tỉnh Đắk Lắk.
- M'nông Phê
Dâm: ở vùng Quảng Tín, huyện
Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông.
Ngoài ra, còn có một số nhóm địa phương khác của đồng bào M'nông như: M'nông Rơ Đe, M'nông R'ông, M'nông K'Ziêng... cư trú ở
Campuchia.
Do có nhiều nhóm địa phương như vậy, nên cộng đồng
dân tộc M'nông có nhiều phương ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ M'nông miền Đông
và phương ngữ M'nông miền Tây; Sự khác nhau giữa các phương ngữ đó là không
đáng kể; Giữa các phương ngữ đó đều dễ dàng nghe và hiểu tiếng nói của nhau.
VII.NHÀ CỬA
Đồng bào M'Nông có cả nhà sàn và nhà trệt, ngôi nhà
trệt của người M'Nông khá đặc biệt bởi chân mái thường buông xuống gần đất, nên
cửa ra vào có cấu trúc vòm như tổ tò vò.
Nhà truyền thống của đồng bào M'Nông Gar |
VIII.VĂN HÓA
Đồng bào M'nông là cư dân nông nghiệp từ lâu đời.
Trong sinh hoạt kinh tế truyền thống, phương thức phát rừng làm rẫy (mir) chiếm
vị trí trọng yếu. Cây lương thực chính của người M'Nông là lúa tẻ. Số lượng lúa
nếp gieo trồng không đáng kể. Ngoài lúa ra, ngô, khoai, sắn cũng được họ trồng
thêm trên rẫy để làm lương thực phụ và nhất là dùng cho chăn nuôi heo, gà...
Công cụ làm rẫy của người M'nông Gar, M'nông Chil
chủ yếu là: Chà gạc (Viêh), rìu (sùng), gậy chọc lỗ (Rmul), cuốc, Wăng Wít
(dụng cụ làm cỏ) và cào...
Việc săn thú phát triển ở vùng M'nông Gar, ở địa
phương với nhiều kinh nghiệm săn lùng, săn rình và gài cạm bẫy để bắt thú rừng.
Đặc biệt là nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng của người M'nông. Voi rừng săn
được, đem về thuần dưỡng biến thành vật nuôi trong gia đình và được dùng làm
phương tiện vận chuyển đường rừng rất hữu hiệu. Xưa kia, người M'nông còn dùng
voi làm chiến tượng trong chiến tranh bộ lạc...
Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm như: trâu, bò, dê,
lợn, gà, vịt ở người M'nông Gar, M'nông Chil chủ yếu là dùng vào các lễ hiến
sinh mà mỗi năm các gia đình người M'nông thường phải tổ chức nhiều lần theo
chu kỳ nông nghiệp cổ truyền và đời sống của họ...
Nhà của người M'nông Gar, thường có mái buông chùm
gần sát mặt đất, có kiến trúc mái cửa vòm như cửa tò vò, trông rất đẹp mắt.
Thông thường, mỗi ngôi nhà của người M'nông Gar,
M'nông Chil ở địa phương là nơi cư trú của nhiều hộ gia đình có quan hệ huyết
thống về phía mẹ.
Ở người M'nông Gar, M'nông Chil, ngoài cách nấu
cơm bằng những nồi đất nung, họ còn có thói quen ăn món cháo chua vào bữa trưa.
Khi đi làm rẫy, cháo chua thường được đựng trong vỏ quả bầu khô mang theo...
Thức ăn thông thường của người M'Nông là muối ớt., cá khô, thịt thú ăn được và
các loại rau rừng...
Rượu cần, là một nhu cầu phổ biến đối với người
M'nông. Nam, nữ, trẻ, già ai cũng thích rượu cần và thuốc lá cuốn...
Xã hội truyền thống của người M'nông còn bảo lưu
những dấu ấn khá sâu đậm của chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ động
trong hôn nhân. Sau lễ cưới, người con trai thường ở bên nhà vợ. Con cái sinh
ra đều theo dòng họ mẹ và quyền thừa kế tài sản đều thuộc về những người con
gái trong gia đình.
Trước đây, người M'nông theo tín ngưỡng đa thần,
đặc biệt là các vị thần nông nghiệp và các vị chư thần giống như các vị thần
của người Cơ Ho, người Mạ. Đạo Thiên chúa và nhất là đạo Tin lành đã thâm nhập
và phát triển vào vùng người M'nông.
IX.TRANG PHỤC
Trang phục truyền thống của người đàn ông M'Nông
ngày xưa là đóng khố,
áo chui đầu, hiện nay trang phục này chỉ sử dụng trong các dịp lễ hội.
Đàn bà M'Nông mặc váy
quấn buông dài trên mắt cá chân. Khố, váy, áo của người M'Nông có màu chàm thẫm
được trang trí bằng các hoa văn truyền thống, màu đỏ rất đẹp mắt.
Trang phục M'Nông trong ngày hội văn hóa các dân tộc năm 2011 tại Đắk Nông |
|
Trang phục đồng bào M'Nông: Nam đóng khố, nữ mặc váy quấn dài đến mắt cá chân |
Người M'nông thích mang nhiều đồ trang sức như:
vòng cổ, vòng tay, vòng chân, hoa tai, nhẫn bằng đồng hay bằng bạc...
Riêng nữ giới còn thích quàng lên cổ những chuỗi
hạt cườm ngũ sắc Những chiếc vòng đồng là cái mà hầu như người M'nông nào cũng
có. Đó là kỷ vật của các lễ hiến sinh, hay lễ kết nghĩa anh em, bạn bè. Nó còn
tượng trưng cho sự giao ước với thần linh thay lời hứa hôn của đôi trai gái
theo tập quán cổ truyền của dân tộc.
Cụ bà M'Nông với đôi dái tai căng rộng để đeo trang sức bông tai bằng ống nứa và những trang sức khác như vòng kiềng cổ bằng bạc |
Cụ ông M'Nông cũng đeo trang sức bông tai bằng nứa |
Tập quán cưa bằng một số răng cửa đối với thanh
niên nam, nữ đang trưởng thành và xâu thủng lỗ tai để mang đồ trang sức. Hoa
tai thường là một khúc ngà voi, hay một khúc tre vàng óng hay một thỏi gỗ quý.
Dái tai của một số lão ông, lão bà có khi xệ xuống chạm vai và như thế được coi
là đẹp, là người sang trọng. Cùng với tập tục cà răng, căng tai là tập quán nhuộm
răng đen và ăn trầu giống như người Kinh...
Cụ ông M'Nông với hàm răng trên được cà sát nướu |
Xin mời đọc tiếp phần sau
Sưu tầm, chỉnh sửa, đăng bài: Hồ Thanh Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét